Thứ Ba, 14 tháng 4, 2015

Bênh viện xả thải ra môi trường khi bị kiểm tra đột xuất

Mới đây cách xử lý nước thải y tế ra môi trường của bệnh viện chỉnh hình và phục hổi chức năng đã bị hội đồng nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đưa ra ánh sáng, thực tế lượng nước thải của hệ thống xử lý nước thải chỉ đạt 50m3/ngày trong khi lượng nước thải y tế trung bình lên tới 120m3.


Nước thải, rác thải y tế nếu không được xử lý sẽ là nguyên nhân trực tiếp gieo rắc mầm bệnh ra môi trường, nguy cơ phát tán và bùng phát dịch bệnh cho con người. Từ năm 2012, Hội đồng Nhân dân thành phố đã ra nghị quyết về việc tất cả các cơ sở y tế trên địa bàn phải có hệ thống xử lý nước thải y tế vận hành đạt tiêu chuẩn. Sau nghị quyết trên, các bệnh viện, cơ sở y tế công lập và tư nhân tại thành phố đã ráo riết triển khai xây dựng hệ thống xử lý nước thải y tế.


Hội đồng Nhân dân thành phố trong chuyến khảo sát hệ thống xử lý nước thải y tế tại BV Nhi Đồng 2.



Để kiểm tra việc thực thi, ngày 21/10, Ban Kinh tế và Ngân sách Hội đồng Nhân dân thành phố đã phối hợp cùng với Sở Y tế, Sở Tài nguyên Môi trường, UBND quận Tân Bình thực hiện giám sát tình hình bảo vệ môi trường, xử lý nước thải, rác thải của bệnh viện Chỉnh hình và Phục hồi chức năng thuộc Bộ Lao động Thương Binh và Xã hội (số 1A, Lý Thường Kiệt, phường 7, quận Tân Bình).

BS Nguyễn Đăng Ngọc, Phó Giám đốc bệnh viện, cho biết: “Bệnh viện Chỉnh hình và Phục hồi chức năng hiện có 120 giường bệnh, trung bình thải ra 120m3 nước thải y tế. Tuy nhiên, hệ thống xử lý nước thải của bệnh viện chỉ có thể xử lý 50m3 nước thải mỗi ngày”. Lý giải cho tình trạng trên BS Ngọc cho biết, bệnh viện sắp thực hiện đề án nâng cấp và mở rộng quy mô khám chữa bệnh lên 400 giường, hệ thống xử lý nước thải y tế sẽ nâng cấp khi thực hiện đề án.

Không đồng ý với nội dung báo cáo của bệnh viện, ông Nguyễn Văn Lâm, Phó trưởng ban Kinh Tế và Ngân sách Hội đồng Nhân dân thành phố đặt vấn đề: “Nếu hệ thống xử lý nước thải chỉ xử lý được 50m3 thì 70m3 nước thải còn lại của bệnh viện đã xả đi đâu?”. Ông Lâm yêu cầu bệnh viện phải thực hiện ngay hệ thống xử lý nước thải với công suất tương đương với số giường bệnh hiện có để chấm dứt tình trạng xả nước thải ra môi trường.


Nhiều bệnh viện còn thực hiện thu gom và tự tiêu hủy rác thải y tế



Bên cạnh hệ thống xử lý nước thải y tế chưa thực hiện đúng quy định, khu chứa rác của bệnh viện cũng đang đặt quá gần với khu dân cư nhưng không có nắp đậy ngăn cách. Đại diện Hội đồng Nhân dân thành phố cũng yêu cầu bệnh viện phải sớm lên phương án xây dựng khu chứa rác cách biệt với khu dân cư hoặc phải thiết kế nắp đậy, tránh việc bốc mùi, gây ô nhiễm môi trường xung quanh; xây dựng kho chứa chế phẩm sinh học, chấm dứt việc gom chế phẩm sinh học và để chung với rác thải y tế như bệnh viện đang thực hiện từ trước đến nay.

Ông Nguyễn Văn Lâm cho rằng, sau nghị quyết của Hội đồng Nhân dân thành phố đến nay đa số các bệnh viện đều báo cáo đã xây dựng hệ thống xử lý chất thải y tế. Nhưng trên thực tế, hệ thống xử lý nước thải y tế có đạt yêu cầu hay không thì chưa có kiểm chứng cụ thể. Từ thực tế kiểm tra giám sát tại bệnh viện Chỉnh hình và Phục hồi chức năng, đại diện Hội đồng Nhân dân thành phố yêu cầu Sở Y tế thực hiện nghiêm việc kiểm tra về mặt chuyên môn đối với hệ thống xử lý chất thải y tế tại các bệnh viện, trung tâm y tế, phòng khám… công lập và tư nhân trên địa bàn, xử lý nghiêm những trường hợp sai phạm.

Thứ Hai, 6 tháng 4, 2015

Sự kiện đi bộ chung tay ủng hộ không vứt rác bừa bãi

Ngày 7/4 các đoàn viên thanh niên của VAAC phối hợp cùng Công ty CP trực tuyến Bigmua VN sẽ cùng tổ chức sự kiện đi bộ chung tay vì môi trường để hưởng ứng cuộc vận động "không xả rác bừa bãi" do Tin Môi Trường tổ chức nhân ngày môi trường thế giới (5/6).


Banner của chương trình tuyên truyền vận động chung tay "Không xả rác bừa bãi"


Hoạt động đi bộ tuyên truyền, cổ động mọi người “Không xả rác bừa bãi” sẽ bắt đầu từ 9 giờ sáng ngày 7/4 kéo dài đến 11 giờ00 trưa ngày 7/4/2015.


Theo lời bà Trần Thị Xuân Quyên, Giám đốc đào tạo Trường Quản lý Khách sạn Việt Úc (VAAC) : Cuộc vận động sáng tác tranh biếm họa với chủ đề “Không xả rác bừa bãi” do Tin Môi Trường tổ chức nhân Ngày môi trường Thế giới (5/6) là một sự kiện tuyên truyền vô cùng có ý nghĩa cho cộng đồng xã hội nên Ban giám hiệu Trường Quản lý Khách sạn Việt Úc đã bàn với Ban chấp hành Đoàn Trường tổ chức cho các Đoàn viên, Thanh niên, sinh viên của Trường dành 1 ngày tham gia tuyên tuyền cổ động cho hoạt động này. Đây cũng là một buổi ngoại khóa hoàn toàn hấp dẫn với các sinh viên của nhà trường trong việc tiếp cận với cộng đồng và truyền bá một thong điệp cực kỳ ý nghĩa cho cộng đồng này.

Còn ông Nguyễn Văn Chính, Giám đốc Công ty Cổ phần Trực tuyến Bigmua Việt Nam cho rằng: Với phương châm “Niềm tin mua sắm”, Bigmua luôn hướng tới môi trường xanh nên luôn luôn cung cấp những sản phẩm xanh, thân thiện với môi trường, thiên nhiên, nên khi được biết đến chương trình của Tin Môi Trường Công ty đã vận động toàn thể nhân viên chi nhánh Miền Nam của Bigmua tham gia hoạt động này. Hy vọng qua hoạt động thực tiễn này sẽ giúp cho các nhân viên ý thức hơn về hành động của mình trong quan hệ với khách hàng cũng như cuộc sống hàng ngày.

Bà Hà Thúy Quỳnh, thành viên Ban tổ chức cuộc đi bộ vận động mọi người “Không xả rác bừa bãi” cho rằng: Dù rất gấp gáp trong khâu chuẩn bị nhưng vì đây là hoạt động thiết thực liên quan đến môi trường và sinh hoạt hằng ngày nên ban tổ chức cũng cố gắng để có một chương trình có ý nghĩa nhất cho cộng đồng. Ban tổ chức cũng hy vọng hành động cực kỳ ý nghĩa này sẽ giúp cộng đồng thân thiện hơn.




Dụng cụ dùng tuyên truyền "Không xả rác bừa bãi"

Thứ Bảy, 4 tháng 4, 2015

6 THÓI QUEN SAU KHI ĂN KHIẾN BẠN CHẾT SỚM

Nếu sau bữa ăn bạn thường có một hoặc nhiều hơn trong số 6 thói quen dưới đây, hãy thay đổi ngay nếu không muốn chết sớm. 

Hát karaoke



Khi vừa mới ăn no dung lượng dạ dày lớn hơn, lưu lượng máu tăng, hát vào lúc này sẽ làm tụt màng ngăn, áp lực phúc mạc gia tăng, nhẹ thì gây khó tiêu, nặng thì gây đau dạ dày và các triệu chứng khác. Vì vậy, tốt nhất để sau khi ăn khoảng 1 tiếng, sau khi thức ăn đã tiêu hóa bình thường hãy đi hát karaoke, hoặc hát trước sau đó mới đi ăn cơm.

Ăn trái cây sau bữa ăn

Không ít người có thói quen ăn trái cây sau khi ăn cơm bởi cho rằng như vậy giúp sạch miệng, bớt cảm giác ngấy. Kỳ thực đây là một thói quen sinh hoạt sai lầm vì ảnh hưởng đến chức năng tiêu hóa. Sau khi thức ăn vào dạ dày, cần 1-2 tiếng mới có thể dần bài trừ, nếu vừa ăn cơm xong đã ăn trái cây ngay sẽ gây đầy bụng bởi số thức ăn trong bữa cơm trước đó chưa tiêu hóa kịp.

Uống trà đặc


Không nên uống trà đặc sau khi ăn.

Theo Health.sina, trong lá trà có chứa lượng lớn axit tannic, uống trà đặc sau khi ăn sẽ khiến khối protein vừa ăn vào chưa được tiêu hóa kết hợp với axit tannic, hình thành chất kết tủa, ảnh hưởng đến việc hấp thụ protein. Các chất có trong lá trà còn cản trở việc hấp thu sắt, thói quen xấu uống trà sau bữa ăn trong thời gian dài, dễ gây thiếu máu do thiếu sắt; ngoài ra, ăn cơm xong uống trà ngay, một lượng lớn nước vào trong dạ dày, sẽ làm loãng dịch vị, từ đó ảnh hưởng công tác tiêu hóa thức ăn của dạ dày.

Hút thuốc

Có người cho rằng: “Một điếu thuốc sau bữa ăn, còn hơn cả thần tiên”. Thực tế, việc này rất nguy hại cho cơ thể. Do sau khi ăn nhu động ruột rất mạnh, tuần hoàn máu cũng tăng nhanh theo, hệ thống tiêu hóa bắt đầu hoạt động toàn diện. Nếu hút thuốc vào lúc này, cường độ hấp thụ khói của phổi và các mô khắp cơ thể tăng mạnh, dẫn tới hấp thu phải lượng lớn các thành phần có hại trong thuốc lá, có tác dụng kích thích rất mạnh đối với hệ hô hấp và tiêu hóa, mang lại tổn thương cho các cơ quan chức năng và các mô trên cơ thể lớn hơn nhiều so với hút thuốc lúc bình thường.

Uống nước

Uống nước ngay sau khi ăn làm loãng dịch vị, khiến thức ăn trong dạ dày chưa kịp tiêu hóa đã vào ruột non, làm suy yếu khả năng tiêu hóa, dễ gây các bệnh đường tiêu hóa. Nếu uống nước có ga thì càng không có lợi cho cơ thể, carbon dioxide do nước ngọt có ga tạo ra dễ làm tăng áp lực trong dạ dày, dẫn tới giãn dạ dày cấp.
Lái xe

Sau bữa ăn do nhu cầu tiêu hóa, máu chủ yếu tập trung về dạ dày, não ở trong trạng thái thiếu máu tạm thời, lái xe lúc này dễ dẫn tới thao tác sai sót, gây tai nạn. Do đó, đợi sau khi ăn 1 tiếng hãy lái xe để đảm bảo an toàn.
Theo nguồn: moitruong.com.vn

Thứ Tư, 1 tháng 4, 2015

CÔNG NGHỆ TƯỚI NƯỚC NHỎ GIỌT NHỜ NĂNG LƯỢNG MẶT TRỜI

Một người ở tỉnh Bình Phước đã thử nghiệm thành công hệ thống tưới nước nhỏ giọt chạy bằng năng lượng mặt trời không gây ô nhiễm môi trường.
Ông Nguyễn Văn Tất (ngụ ấp 7, xã Đức Liễu, huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước) - người đã thử nghiệm thành công hệ thống tưới nước nhỏ giọt chạy bằng năng lượng mặt trời. Mô hình giúp tiết kiệm chi phí, nhân công, phân bón, đồng thời nâng cao năng suất và không gây ô nhiễm môi trường.


Ông Tất bên hệ thống tưới nước nhỏ giọt.

Ông Nguyễn Văn Tất cho biết, công nghệ này bao gồm 1 tấm pin tích hợp năng lượng mặt trời, công suất 175w. Năng lượng từ pin sẽ được dẫn tới một motor. Motor sẽ vận hành hệ thống bơm lấy nước từ dưới mương, ao, giếng, sông hồ… và dẫn nước theo hệ thống ống dẫn nước tới tận gốc cây.

Hệ thống ống dẫn nước từ máy bơm lên đến vườn cây được sử dụng tùy loại ống, nếu sử dụng loại ống nhựa 40mm, khi đến gốc cây được phân thành các nhánh theo hàng cây với loại ống nhỏ 14mm. Tại mỗi gốc sẽ có 2 van xả nước, nhỏ đều từng giọt và chỉnh lượng nước vừa đủ độ ẩm cho cây phát triển.

Ông Tất nói: “Qua hơn 2 năm sử dụng hệ thống này kết quả cho thấy vườn cà phê và điều không còn rụng trái non, bông ca cao không còn bị héo như trước, trái và hạt chắc hơn. Do đó, năng suất vườn cây tăng từ 25 - 30% so với trước. Không những cho tăng năng suất mà còn tiết kiệm chi phí so với chạy máy bơm. Nếu như trước đây bình quân vào mùa khô gia đình tôi phải tưới ít nhất 5 lần/mùa, chi phí hết 8 triệu tiền dầu và 5 triệu tiền nhân công, nhưng nay không tốn một đồng nào”.

Không chỉ tưới nước, hệ thống này còn có chức năng bón phân cho cây rất đồng đều và tiện lợi bằng cách lấy phân hòa lẫn với nước cho tan, liều lượng cân đối với diện tích rồi cho vào bình chứa bơm lên qua hệ thống dẫn nước tới từng gốc cây.

Đây là hệ thống tưới nước tự động, khi có nắng máy sẽ tự động bật, khi hết nắng máy tự động ngắt nên không cần nhân công vận hành máy.

Ngoài hệ thống tưới nước cho vườn cây, gia đình ông Tất còn lắp đặp ống dẫn nước vào bể sử dụng cho sinh hoạt gia đình.

Hệ thống tưới nước nhỏ giọt chạy bằng năng lượng mặt trời của gia đình ông Nguyễn Văn Tất dễ làm, ít tốn kém, do đó mọi người có thể đến học tập về áp dụng ngay ở thời điểm nắng nóng, khô hạn này.
Theo nguồn: moitruong.com.vn

NGẮM NGÔI NHÀ ĐƯỢC CHẾ TẠO TỪ VẬT LIỆU TÁI CHẾ TUYỆT ĐẸP

Một kiến trúc sư người Ý đã đưa ra ý tưởng thiết kế ngôi nhà nổi thân thiện với môi trường, được chế tạo bằng vật liệu tái chế.
Trong tình trạng khan hiếm đất đai, nhằm tránh việc chặt cây xanh lấy diện tích đất để xây dựng nhà ở, Giancarlo Zema - một kiến trúc sư người Ý - đã cho ra đời ý tưởng về một ngôi nhà nổi hoàn toàn thân thiện với môi trường.


Ý tưởng ngôi nhà nổi thân thiện với môi trường của kiến trúc sư người Ý



Ngôi nhà được chế tạo bằng các vật liệu tái chế

Ngôi nhà được thiết kế nổi trên mặt nước để tiết kiệm không gian trên mặt đất, sử dụng một cây cầu nhỏ để nối liền với bờ. Chất liệu được sử dụng để xây nhà là vật liệu tái chế như gỗ, nhôm…


Mặt trước của "ngôi nhà xanh"

Mái của ngôi nhà được lợp thêm các tấm pin năng lượng mặt trời, cho phép cung cấp điện cho các hoạt động sinh hoạt trong nhà.



Mái của ngôi nhà được lắp thêm những tấm pin năng lượng mặt trời


Nguồn điện tích tụ từ các tấm pin mặt trời sẽ được sử dụng cho các hoạt động trong nhà

Nội thất trong nhà được bày biện khá đơn giản, được chế tạo chủ yếu bằng gỗ tái chế, mang tới cảm giác thân thiện, gần gũi với thiên nhiên.




Nội thất trong nhà được thiết kế bằng gỗ tái chế

Tuy nhiên, ý tưởng cũng có nhược điểm lớn khi chiếm diện tích khá lớn trên hồ. Ngoài ra, việc xây dựng nhà và sinh sống trên mặt nước có thể vô tình gây ô nhiễm nguồn nước tại các khu vực hồ này.

Thứ Hai, 30 tháng 3, 2015

3 SẢN PHẨM HÀNG NGÀY DÙNG 1 LẦN GÂY NGUY HẠI ĐẾN SỨC KHỎE

Hiện nay, vì tính tiện dụng mà rất nhiều sản phẩm dùng một lần được ra đời, trong đó, rất nhiều sản phẩm độc hại, gây ảnh hưởng xấu tới sức khỏe của người tiêu dùng.

Hộp xốp dùng một lần 

Thực phẩm ở trên 70 độ C hoặc đồ ăn chua để trong hộp xốp dùng một lần sẽ bị nhiễm chất gây ung thư hoặc rối loạn chứ năng gan, thận. 

Theo cảnh báo mới nhất của Cục An toàn thực phẩm, đũa dùng một lần có thể tồn dư chất bảo quản chống mốc, còn hộp xốp dùng một lần có nhiễm chất gây ung thư, rối loạn chức năng gan, thận... nếu đựng thực phẩm ở nhiệt độ trên 70 độ C hay đồ ăn chua. 

Kỹ sư Vũ Tân Cảnh, Phòng Vật liệu Polyme và Compzit, Viện Khoa học Vật liệu thuộc Viện Khoa học Công nghệ Việt Nam, cảnh báo, trước thói quen dùng hộp xốp đựng thực phẩm vô tộ vạ của người dân hiện nay. 



Hộp xốp dùng một lần được sử dụng rất phổ biến. Ảnh minh họa. 

Theo Kỹ sư Cảnh, nguyên liệu chính để chế tạo hộp xốp không an toàn là một loại nhựa nhiệt dẻo có tên là Polystiren phân tử thấp, do vậy nó chỉ được dùng để đựng thức ăn nguội, còn đựng thức ăn nóng là điều tối kỵ. Vì nhiệt từ thức ăn nóng sẽ khiến loại nhựa này giải phóng ra một chất độc có tên là monostyren, ngấm vào thức ăn, ăn vào sẽ cực hại cho gan, cũng như gây ra nhiều bệnh khác. 

PGS.TS Đỗ Văn Kháng, trưởng phòng công nghệ polyme (Viện Hóa học), ở nhiệt độ 70-80 độ C là một số phụ gia trong nhựa bắt đầu hòa tan vào thực phẩm. Nếu là loại kém chất lượng, có thể chứa chất dioctin phatalat, ảnh hưởng trực tiếp tới giới tính. 

Theo đó, nếu bị nhiễm chất này lâu dài, chất này có thể ảnh hưởng về giới tính của trẻ em, các bé trai có thể bị nữ tính hóa, vô sinh nam, còn trẻ em nữ có nguy cơ dậy thì quá sớm. Vì thế, người ta khuyến cáo chỉ nên dùng hộp nhựa đựng đồ ăn nguội, chớ dại múc cả canh, cơm đang nóng hôi hổi vào hộp nhựa, có thể sinh ra các chất độc hại cho cơ thể. 

Bao tay dùng một lần chứa chất độc gây tổn thương thần kinh

Hầu hết các sản phẩm nilon dùng một lần đều được làm từ nilon tái chế, chính vì vậy, độ an toàn của nó cần có rất nhiều lưu ý. Dù vậy nhưng trên bao bì của rất nhiều loại bao tay nilon đều không có những lưu ý khi sử dụng cho người tiêu dùng. 


Bao tay nilon thường xuyên được các chủ cửa hàng ăn uống sử dụng để tiếp xúc với thức ăn có nhiệt độ cao. 

Thạc sĩ Đoàn Khang, chuyên gia sinh hóa, cho biết “Những loại nilon tái chế thường có những hạn chế nhất định trong quá trình sử dụng. Đặc biệt là đối với nhiệt độ. Khi sử dụng loại nilon tái chế này ở nhiệt độ cao sẽ tạo điều kiện cho vi khuẩn phát triển, ngoài ra có thể sẽ hòa tan một số chất độc hại trong nilon vào thực phẩm nếu sử dụng nilon tiếp xúc với trực tiếp với thực phẩm ở nhiệt độ cao. Nhất là đối với những loại nilon tái chế để sử dụng một lần, vì đó là những loại nilon chứa nhiều chất độc hại hơn các loại nilon khác. 

Đặc biệt trong các loại nilon tái chế có chứa các chất hóa dẻo, đây được xem là có yếu tố gây độc nhiều nhất. Điển hình là chất hóa dẻo TOCP (Triorthocresylphosphat) là loại hóa chất rất độc hại, nó sẽ làm tổn thương và thoái hóa thần kinh ngoại biên và tủy sống, chất BBP (một chất phthalate) có thể gây độc cho tinh hoàn và gây ra một số dị tật bẩm sinh nếu tiếp xúc với nó…”. 

Thạc sĩ Đoàn Khang cũng chia sẻ thêm, hiện nay, các cửa hàng bán đồ ăn thường xuyên sử dụng bao tay nilon, chủ yếu là các loại bao tay dùng một lần. 

Chính vì vậy, cần phải lưu ý trong khi tiếp xúc với thực phẩm, vì hầu như các quán ăn đều có những thực phẩm ở nhiệt độ cao hơn nhiệt độ thường và sử dụng bao tay nilon trong suốt cả một ngày dài, khi sử dụng đi sử dụng lại, bao tay nilon cũng là nơi tích tụ nhiều loại vi khuẩn gây bệnh cho người sử dụng thực phẩm. 


Cốc, bát dùng một lần 

Thị trường các loại cốc, bát, đĩa, thìa… dùng một lần ngày càng phong phú, nhiều mẫu mã, kích thước, kiểu dáng đa dạng, đáp ứng mọi nhu cầu của người dùng. Ghi nhận thị trường cho thấy, nhiều loại cốc, đĩa, bát giấy dùng một lần vẫn chưa có hướng dẫn sử dụng cụ thể, không có tên, tuổi, địa chỉ công ty sản xuất. Số ít còn lại, bên cạnh tên tuổi nhà sản xuất có thêm một tem, nhãn phụ ghi chất liệu chủ yếu từ nhựa PP và PS; nhiệt độ dùng từ 5-80 độ C. 


Cốc, bát dùng một lần phải được sử dụng đúng cách mới tiện dụng và an toàn. Ảnh minh họa. 

Nhận định chung về chất lượng các loại cốc, bát, đĩa giấy dùng một lần, PGS.TS Nguyễn Gia Điền, Trưởng phòng Công nghệ Hóa chất Sinh học, Viện Hóa học Việt Nam cho hay nhu cầu sử dụng của người tiêu dùng có thể dùng cho cả nóng và lạnh. 

Do vậy, nguyên liệu cũng như quy trình làm các loại cốc, bát, đĩa này, đặc biệt là lớp tráng chống thấm phải đảm bảo các tiêu chuẩn khắt khe. Do đó, tốt nhất là nếu mua thì người tiêu dùng nên chọn mua các loại có nguồn gốc xuất xứ và hướng dẫn sử dụng rõ ràng. 

Còn theo PGS.TS Nguyễn Duy Thịnh, Viện Công nghệ sinh học và Công nghệ thực phẩm (ĐH Bách khoa Hà Nội) thì không nên sử dụng các loại cốc, bát, đĩa dùng một lần để đựng các đồ nóng vượt quá 70 độ C. 

Nguyên nhân do trong quá trình sản xuất, các loại đồ dùng này thường được trộn phụ gia chống thấm nước có sử dụng keo chứa phenol và melamin. Nếu đựng thực phẩm nóng quá ngưỡng trên, lớp màng chống thấm có thể bị chảy ra, hòa tan gây ảnh hưởng xấu đến sức khỏe người tiêu dùng.

NĂNG LƯỢNG HẠT NHÂN : LỢI ÍCH VÀ TÁC HẠI


Theo một cách đơn giản, năng lượng hạt nhân được định nghĩa là năng lượng thu được trong một phản ứng hạt nhân. Phản ứng hạt nhân là phản ứng liên hợp (khi hai hạt nhân nguyên tử kết hợp để tạo thành một hạt nhân nặng duy nhất) và phân hạch (khi một hạt nhân nặng duy nhất chia tách thành hai hạt nhân nhỏ hơn) giải phóng một năng lượng rất lớn. Khối lượng hạt nhân được chuyển đổi thành năng lượng.

Năng lượng được giải phóng là kết quả của sự chênh lệch giữa tổng khối lượng của các phần tử tham gia trước và sau khi phản ứng. Quá trình này là một phản ứng dây chuyền và năng lượng được giải phóng cho đến khi các nguyên tử trở nên ổn định.
I. Ưu điểm của năng lượng hạt nhân:

1.1.  Nguồn năng lượng xanh

Ưu điểm lớn nhất của nguồn năng lượng này là không tạo ra các khí thải nhà kính (như carbon dioxide, methane, ozone, chlorofluorocarbon) trong phản ứng hạt nhân. Khí thải nhà kính là một mối đe dọa lớn cho môi trường sống, chúng gây ra sự nóng lên toàn cầu và biến đổi khí hậu. Phản ứng hạt nhân không tạo ra các khí thải, nên có rất ít ảnh hưởng đến môi trường.
1.2. Tạo ra một số lượng lớn năng lượng

Phản ứng hạt nhân giải phóng nhiều hơn một triệu lần năng lượng so với thủy điện hoặc năng lượng gió. Vì vậy, một lượng điện năng lớn có thể được tạo ra. Hiện nay, có khoảng 10-15% sản lượng điện của thế giới được tạo ra bằng năng lượng hạt nhân. Bạn có biết với một kg uranium-235 có thể sản xuất ra một lượng năng lượng điện tương đương 1.500 tấn than.

1.3. Nhiên liệu độc lập

Lò phản ứng hạt nhân sử dụng uranium làm nhiên liệu. Phản ứng phân hạch của một lượng nhỏ uranium có thể tạo ra một năng lượng lớn. Hiện nay, nguồn dự trữ uranium được tìm thấy trên Trái đất dự kiến sẽ đáp ứng được nhu cầu trong 100 năm nữa. Sử dụng năng lượng này có thể làm cho nhiều quốc gia có thể độc lập về năng lượng và không phụ thuộc vào việc khai thác những nhiên liệu như than đá.

Nếu không có các lỗi của con người hay tai nạn và thiên tai, các lò phản ứng hạt nhân sẽ hoạt động rất hiệu quả trong một thời gian dài. Thêm vào đó, sau khi xây dựng, việc vận hành nhà máy đòi hỏi rất ít lao động.

1.4. Không làm ô nhiễm không khí

Việc đốt nhiên liệu như than đá tạo ra carbon dioxide và khói. Đó là một mối đe dọa đối với môi trường cũng như đời sống con người. Sản xuất năng lượng hạt nhân không thải ra khói. Vì thế, nó không gây ô nhiễm không khí trực tiếp. Tuy nhiên, xử lý chất thải phóng xạ là một vấn đề lớn hiện nay.

II. Nhược điểm của năng lượng hạt nhân

2.1. Không thể tái tạo

Mặc dù chúng tạo ra một lượng lớn năng lượng, các lò phản ứng hạt nhân vẫn phụ thuộc vào uranium. Đây là một nhiên liệu có thể bị cạn kiệt. Sự cạn kiệt của nó lại có thể gây ra một vấn đề nghiêm trọng. Các lò phản ứng sẽ phải ngừng hoạt động, chúng sẽ vẫn chiếm một diện tích lớn đất đai và làm ô nhiễm môi trường.

2.2. Bức xạ
Sự giải phóng ngẫu nhiên các bức xạ có hại là một trong những hạn chế lớn nhất của năng lượng hạt nhân. Quá trình phân hạch giải phóng bức xạ, nhưng chúng được kiểm soát trong một lò phản ứng hạt nhân. Nếu các biện pháp an toàn không được đảm bảo, các bức xạ có thể tiếp xúc với môi trường sẽ dẫn đến những ảnh hưởng nghiêm trọng đến hệ sinh thái và con người.

2.3. Phát triển vũ khí hạt nhân

Năng lượng này có thể được sử dụng cho sản xuất và phổ biến vũ khí hạt nhân. Vũ khí hạt nhân sử dụng phản ứng phân hạch, nhiệt hạch, hoặc kết hợp cả hai phản ứng cho các mục đích phá hủy. Đó là một mối đe dọa lớn đối với thế giới vì chúng có thể gây ra một sự tàn phá quy mô lớn. Tác động của chúng có thể ảnh hưởng tới nhiều thế hệ (ví dụ, vụ đánh bom nguyên tử ở Hiroshima và Nagasaki, Nhật Bản).

2.4. Chi phí xây dựng khổng lồ

Tuy một lượng lớn năng lượng có thể được sản xuất từ một nhà máy điện hạt nhân, nhưng nó đòi hỏi chi phí đầu tư lớn. Cần đến khoảng 10-15 năm để xây dựng xong một nhà máy điện hạt nhên. Việc xây dựng một nhà máy điện hạt nhân có thể không khả thi.

2.5. Chất thải hạt nhân

Các chất thải được tạo ra sau phản ứng phân hạch chứa các nguyên tố không ổn định và phóng xạ cao. Nó rất nguy hiểm đối với môi trường cũng như sức khỏe con người và sẽ tồn tại trong một khoảng thời gian dài. Nó cần được xử lý cẩn thận và phải cách biệt với môi trường sống. Độ phóng xạ của các nguyên tố này sẽ giảm trong một thời gian, sau đó phân hủy. Do đó, người ta phải được tích trữ và xử lý một cách cẩn thận. Việc tích trữ các nguyên tố phóng xạ trong một thời gian dài là rất khó khăn.

2.6. Tai nạn nhà máy điện hạt nhân

Cho đến này, đã có hai vụ tai nạn nhà máy điện hạt nhân thảm khốc xảy ra: thảm họa Chernobyl xảy ra tại nhà máy điện hạt nhân Chernobyl (1986) tại Ukraine, và thảm họa hạt nhân Fukushima Daiichi (2011) tại Nhật Bản. Sau các sự cố, một lượng lớn các bức xạ đã bị phát tán vào môi trường, dẫn đến những thiệt hại về người, thiên nhiên và đất đai. Người ta không thể phủ nhận khả năng lặp lại những thảm họa này trong tương lai.

2.7. Vận chuyển nhiên liệu và chất thải

Việc vận chuyển nhiên liệu uranium và các chất thải phóng xạ là rất khó khăn. Uranium phát ra một số bức xạ, do đó, nó cần phải được xử lý cẩn thận. Chất thải của quá trình sản xuất hạt nhân còn nguy hiểm hơn và cần được bảo vệ tốt hơn. Tất cả các phương tiện vận chuyển chúng đảm bảo các tiêu chuẩn an toàn quốc tế. Mặc dù chưa có tai nạn hoặc sự cố tràn nào được thống kê, nhưng quá trình vận chuyển vẫn còn là thách thức.

NHỮNG CON SỐ BIẾT NÓI VỀ NƯỚC SẠCH

Nguồn nước sạch ngày càng khan hiếm khi mà ô nhiễm môi trường ngày càng tăng, dân số các nước trên thế giới đang không ngừng bùng phát, biến đổi khí hậu kèm theo thiên tai khiến cho nguồn nước sạch ngày càng cạn kiệt.  
“Nước là vô tận, không bao giờ cạn” - quan niệm sai lầm này đã dẫn đến việc lãng phí nguồn nước sạch trong sinh hoạt hàng ngày. 

17.200.000
Việt Nam hiện có khoảng 17,2 triệu người (tương đương 21,5% dân số) đang sử dụng nguồn nước sinh hoạt từ giếng khoan, chưa được kiểm nghiệm hay qua xử lý, theo thống kê của Viện Y học lao động và Vệ sinh môi trường.

Điển hình như tỉnh Tiền Giang, chỉ tính riêng xã Hưng Thạnh đã có hơn 50% dân cư vẫn phải dùng nước chưa được an toàn (nước giếng nhiễm phèn, nước sông ngòi ô nhiễm, nước mưa…) cho sinh hoạt hàng ngày.

Nước ô nhiễm khiến tỷ lệ bệnh tật ở phụ nữ và trẻ em tăng cao

9.000

Theo thống kê của Bộ Y tế và Bộ Tài nguyên - Môi trường, trung bình mỗi năm Việt Nam có khoảng 9.000 người tử vong vì nguồn nước và điều kiện vệ sinh kém. Cũng theo đánh giá tổng hợp của Bộ, hằng năm có gần 200.000 người mắc bệnh ung thư mới phát hiện mà một trong những nguyên nhân chính bắt nguồn từ ô nhiễm môi trường nước.

Trên thực tế, một số địa phương như xã Hưng Thạnh, xã Thạnh Tân (Tiền Giang), xã Duy Hòa (Quảng Nam), các ca nhiễm ung thư, viêm nhiễm ở phụ nữ do sử dụng nguồn nước ô nhiễm chiếm đến gần 40% dân cư toàn xã, có nơi lên đến 50%.
3.840

Việt Nam hiện thuộc nhóm quốc gia “thiếu nước” do lượng nước mặt bình quân đầu người mỗi năm chỉ đạt 3.840m3, thấp hơn chỉ tiêu 4.000m3/người/năm của Hội tài nguyên nước quốc tế (IWRA). Đây được xem là một nghịch lý đối với một quốc gia có mạng lưới sông ngòi dày đặc như nước ta.

Sông ngòi, kênh rạch vẫn là nguồn nước sinh hoạt chính của phần lớn cư dân huyện Tân Phước, Tiền Giang
30%

Một kết quả điều tra xã hội học trong cư dân sinh sống trên lưu vực các con sông tại Việt Nam, có đến hơn 30% số người được hỏi về sự ô nhiễm và cạn kiệt nguồn nước sạch đều chưa nhận thức được hết hậu quả nghiêm trọng, dù tình trạng này thường xuyên tác động đến sức khỏe, đời sống không chỉ riêng bản thân mà cả gia đình họ. Điều đó cho thấy, nhận thức về tầm quan trọng của nước sạch, thực trạng khan hiếm nước sạch cũng như ý thức bảo vệ nguồn tài nguyên nước của người Việt Nam chưa cao, đây cũng chính là 1 trong các tác nhân làm nước sạch đã hiếm lại đang bị hoang phí ở nhiều nơi.
Những con số thống kê trên đã một phần nào báo động về sự khan hiếm và thiếu nước sạch trong tương lai. Vậy thì, sao chúng ta không hành đông ngay cùng chung tay bảo vệ nguồn nước sạch hiện có.

NỖI SỢ KINH HOÀNG KHI NHIÊN LIỆU HẠT NHÂN NÓNG CHẢY

Các thanh nhiên liệu trong các lò phản ứng hạt nhân của Nhật Bản bị thiệt hại bởi động đất và sóng thần đang có nguy cơ bị nóng chảy hoàn toàn và gây ra những hậu quả khôn lường.
Sau các vụ nổ và cháy liên tiếp xảy ra tại 4 trong số 6 lò phản ứng hạt nhân của nhà máy điện hạt nhân Fukushima 1, giới chức và các chuyên gia hạt nhân Nhật Bản cho biết ,họ không loại trừ khả năng xảy ra một vụ nóng chảy hạt nhân tại nhà máy này.
Vậy tại sao nhiên liệu hạt nhân nóng chảy lại có khả năng gây ra thảm họa? Dưới đây là giải thích của các chuyên gia hạt nhân Mỹ.


Vị trí nhà máy điện hạt nhân Fukushima số 1 (Daiichi) và số 2 (Daini) của Nhật Bản

Thành phân cơ bản và trọng yếu nhất của bất kỳ nhà máy hạt nhân nào là nhiên liệu hạt nhân. Người ta lợi dụng quá trình phân hạch tạo ra nhiệt lượng khổng lồ để đun sôi nước tạo hơi chạy tuabin của máy phát điện.

Nhiên liệu chủ yếu được sử dụng trong các nhà máy điện hạt nhân là các thanh nhiên liệu uranium. Tuy nhiên, người ta phải kiểm soát phản ứng hạt nhân để tạo ra một nhiệt lượng vừa đủ đun sôi nước và duy trì phản ứng liên tục. Với mục đích này, các thanh điều khiển chứa các vật liệu hấp thu neutron như Bo hay Cadmi để kiểm soát quá trình phân hạch bởi neutron chính là tác nhân bắn phá gây ra phản ứng hạt nhân.

Kết cấu lò phản ứng được sử dụng tại nhà máy điện hạt nhân Fukushima số 1 của Nhật Bản

Các thanh điều khiển càng được thả ngập sâu vào khu vực chứa nhiên liệu hạt nhân thì phản ứng phân hạch càng bị làm chậm lại. Tuy nhiên, những thanh nhiên liệu hạt nhân này vẫn còn tạo ra nhiệt năng, ngay cả khi các thanh kiểm soát hoạt động bình thường, đòi hỏi một hệ thống làm nguội để duy trì nhiệt độ.

Khi hệ thống làm nguội bị trục trặc như trong trường hợp của các lò phản ứng tại nhà máy điện hạt nhân Fukushima số 1 của Nhật Bản, sức nóng của các thanh nhiên liệu khiến nước trong lò bị cạn dần. Nếu các thanh nhiên liệu bị lộ ra và quá trình này kéo dài thì cuối cùng chúng có thể bị nóng chảy.

Trong trường hợp bị nóng chảy hoàn toàn thì nhiên liệu hạt nhân có thể nhỏ xuống sàn của lò phản ứng. Nếu cấu trúc vỏ lò phản ứng không đủ bền vững thì có nguy cơ nhiên liệu với độ phóng xạ cực kỳ nguy hiểm có thể phát tán trực tiếp ra môi trường bên ngoài và có thể gây hậu quả tàn phá.

Sơ đồ lò phản ứng sử dụng tại Fukushima số 1 của Nhật Bản. Các thanh nhiên liệu (màu đỏ) 
có thể bị nóng chảy khi không được làm nguội kịp thời

Để hình dung thiệt hại, các nhà khoa học Mỹ lấy ví dụ là vụ nổ tại nhà máy điện hạt Chernobyl, Ukraina năm 1986. Sau vụ nổ, một đám mây bụi phóng xạ từ nhà máy đã lan rộng ra hằng trăm kilomet, đã gây ra nhiều trường hợp tử vong vì bệnh ung thư và khuyết tật bẩm sinh nơi trẻ em. Mức phóng xạ quá cao cũng khiến nhiều thị trấn xung quanh nhà máy Chernobyl trở thành mảnh đất “chết”, không có người sinh sống cho tới ngày nay.

Con người cũng có thể bị phơi nhiễm phóng xạ độc hại qua đồ ăn, nước uống bị nhiễm phóng xạ. Một cuộc khảo cứu mới đây của LHQ ước tính thảm họa Chernobyl đã gây ra 6.000 trường hợp ung thư tuyến giáp ở trẻ em, phần lớn là qua sữa bị nhiễm phóng xạ.

Sau thảm họa Chernobyl, một vùng rộng lớn quanh nhà máy này đã trở thành đất "chết"

Hiện, Nhật Bản chỉ để lại 50 công nhân “cảm tử” thực hiện việc bơm nước biển, được xử lý với boron để tìm cách làm nguội lõi của các lò phản ứng hạt nhân quá nóng tại cả hai nhà máy điện hạt nhân Fukushima. Nếu thành công, Nhật Bản sẽ dập tắt hoàn toàn và đồng thời phá hủy luôn các lò phản ứng này.

Sau khi những lò phản ứng đã được đặt trong tầm kiểm soát, các thanh nhiên liệu sẽ bị chôn lấp cùng các "quan tài bê tông" để ngăn ngừa phóng xạ khỏi rò rỉ ra ngoài. Tuy nhiên, thông tin mới nhất cho thấy, kế hoạch sử dụng trực thăng dội nước biển làm nguội các lò phản ứng của Nhật Bản đang có khả năng bị đổ vỡ.

Thứ Tư, 25 tháng 3, 2015

XỬ LÝ NƯỚC THẢI BẰNG PHƯƠNG PHÁP HÓA LÝ

Nước thải được thải ra từ nhiều nguồn khác nhau như: sinh hoạt, sản xuất, công nghiệp, khu dân cư, đô thị... và cũng có các đặc tính khác nhau tùy thuộc vào nguồn gốc xả thải. Vì vậy dựa vào từng tính chất của nước thải mà áp dụng các phương pháp xử lý nước thải khác nhau. Có các phương pháp xử lý nước thải  như: Xử lý cơ học, xử lý hóa học, xử lý hóa - lý, xử lý sinh học. 

Trong đó đối với phương pháp xử  lý  hóa - lý dựa trên cơ sở sử dụng các quá trình: Hấp phụ , tuyển nổi, trao đổi ion, tách bằng màng, chưng bay hơi, trích ly, cô đặc, khử hoạt tính phóng xạ, khử khí, khử mùi, khử muối...Xử lý nước thải bằng hóa lý có những phương pháp sau:

1. Hấp phụ
Trong xử lý nước thải phương pháp hấp phụ dùng để tách các chất hữu cơ và khí hòa tan khỏi nước thải bằng cách tập trung những chất đó trên bề mặt chất rắn ( chất hấp phụ ) hoặc bằng các tương tác giữa các chất bẩn hòa tan với các chất rắn ( hấp phụ hóa học )


Hình 1: Luật phân tán London đóng vai trò quan trọng trong quá trình hấp phụ
Quá trình hấp phụ gồm 3 giai đoạn:
  • Giai đoạn 1: Di chuyển các chất cần hấp phụ từ nước thải tới bề mặt hạt hấp phụ
  • Giai đoạn 2: Thực hiện quá trình hấp phụ
  • Giai đoạn 3:Di chuyển chất ô nhiễm vào bên trong hạt hấp phụ (vùng khuếch tán trong).
Ứng dụng của quá trình hấp phụ trong xử lý nước thải
• Tách các chất hữu cơ như phenol, alkylbenzen-sulphonic acid, thuốc nhuộm, các hợp chất thơm từ nước thải bằng than hoạt tính;
• Có thể dùng than hoạt tính khử thuỷ ngân;
• Có thể dùng để tách các chất nhuộm khó phân huỷ;
• Ứng dụng còn hạn chế do chi phí cao.

2. Trích ly 
Dùng để tách các chất bẩn hòa tan ra khỏi nước thải bằng cách bổ sung một chất dung môi không hòa tan vào nước, nhưng độ hòa tan của chất bẩn trong dung môi cao hơn trong nước.
3. Chưng bay hơi
 Là chưng nước thải để các chất hòa tan trong đó cùng bay hơi lên theo hơi nước. khi ngưng tụ hơi nước và chất bẩn dễ bay hơi sẽ hình thành các lớp riêng biệt và do đó dễ dàng tách các chất bẩn ra.
4. Tuyển nổi 


Hình 2: Sơ đồ bể tuyển nổi kết hợp với cô đặc bùn

Là phương pháp dùng để loại bỏ các tạp chất ra khỏi nước bằng cách tạo cho chúng khả năng dễ nổi lên mặt nước khi bám theo các bọt khí.
5. Trao đổi ion 
Là phương pháp thu hồi các Cation và anion bằng các chất trao đổi ion ( ionit ). Các chất trao đổi ion là các chất rắn trong thiên nhiên hoặc vật liệu nhựa nhân tạo. Chúng không hòa tan trong nước và trong dung môi hữu cơ, có khả năng trao đổi ion

Hính 2: Ứng dụng phương pháp trao đổi ion trong quá trình làm mêm nước

6. Tách bằng màng
 Là phương pháp tách các chất tan khỏi các hạt keo bằng cách dùng các màng bán thấm. Đó là các màng xốp đặc biệt không cho các hạt keo đi qua



Thứ Ba, 24 tháng 3, 2015

XỬ LÝ NƯỚC THẢI BẰNG PHƯƠNG PHÁP SINH HỌC HIẾU KHÍ

Xử lý nước thải bằng phương pháp sinh học thực chất là dựa vào khả năng sống và hoạt động của các vi sinh để phân hủy - oxy hóa các chất hữu cơ ở dạng keo và hòa tan có trong nước thải. Phương pháp này thường áp dụng để xử lý các chất hữu cơ hòa tan có trong nước thải cũng như một số chất ô nhiễm vô cơ khác như H2S, sunfit, ammonia, nitơ… 
Phương pháp xử lý sinh học có thể được chia thành 2 loại:

• Xử lý hiếu khí sử dụng nhóm vi sinh vật hiếu khí, hoạt động trong điều kiện cung cấp oxy liên tục. Quá trình phân huỷ các chất hữu cơ nhờ vi sinh vật gọi là quá trình oxy hoá sinh hoá. 

• Xử lý kỵ khí sử dụng nhóm vi sinh vật kỵ khí, hoạt động trong điều kiện không cung cấp oxy;

Sau đây sẽ tìm hiểu rõ hơn về xử lý hiếu khí: 

Quá trình xử lý nước thải bằng sinh học hiếu khí gồm ba giai đoạn sau: 

- Oxy hoá các chất hữu cơ: CxHyOz + O2 => CO+ H2O + DH

- Tổng hợp tế bào mới: CxHyOz + NH3 + O2 => CO2 + H2O + DH 

- Phân huỷ nội bào: C5H7NO2 + 5O2 => 5CO2 + 5 H2O + NH3 ± DH
Xử lý sinh học hiếu khí có thể xảy ra ở điều kiện tự nhiên hoặc nhân tạo. Trong các công trình xử lý nhân tạo, người ta tạo điều hiện tối ưu cho quá trình oxy hoá sinh hoá . Vì vậy, nên quá trình xử lý có tốc độ và hiệu suất cao hơn rất nhiều. Tuỳ theo trạng thái tồn tại của vi sinh vật,xử lý sinh học hiếu khí nhân tạo có thể chia thành:

• Xử lý sinh học hiếu khí với vi sinh vật sinh trưởng dạng lơ lửng chủ yếu được sử dụng khử chất hữu cơ chứa carbon như quá trình bùn hoạt tính, hồ làm thoáng, bể phản ứng hoạt động gián đoạn, quá trình lên men phân huỷ hiếu khí. Trong số những quá trình này, quá trình bùn hoạt tính hiếu khí (Aerotank) là quá trình phổ biến nhất. 

• Xử lý sinh học hiếu khí với vi sinh vật sinh trưởng dạng dính bám như quá trình bùn hoạt tính dính bám, bể lọc nhỏ giọt, bể lọc cao tải, đĩa sinh học, bể phản ứng nitrate hoá với màng cố định. 


Bể bùn hoạt tính hiếu khí Aerotank

1. Công nghệ xử lý nước thải bùn hoạt tính hiếu khí (Aerotank)

Trong bể bùn hoạt tính hiếu khí với sinh vật sinh trưởng dạng lơ lửng, quá trình phân huỷ xảy ra khi nước thải tiếp xúc với bùn trong điều kiện sục khí liên tục. Việc sục khí nhằm đảm bảo cung cấp đủ lượng oxy một cách liên tục và duy trì bùn hoạt tính ở trạng thái lơ lửng. 

Bản chất của phương pháp là phân huỷ sinh học hiếu khí với cung cấp ôxy cưỡng bức và mật độ vi sinh vật được duy trì cao (2.000mg/L –5.000mg/L) vì vậy tải trọng phân huỷ hữu cơ cao và cần ít mặt bằng cho hệ thống xử lý. Tuy nhiên hệ thống có nhược điểm là cần nhiều thiết bị và tiêu hao nhiều năng lượng. 

Nồng độ oxy hoà tan trong nước ra khỏi bể lắng đợt 2 không được nhỏ hơn 2 mg/l. Tốc độ sử dụng oxy hoà tan trong bể bùn hoạt tính phụ thuộc vào: 

• Tỷ số giữa lượng thức ăn (CHC có trong nước thải) ø lượng vi sinh vật: tỷ lệ F/M; 
• Nhiệt độ; 
• Tốc độ sinh trưởng và hoạt động sinh lý của vi sinh vật; 
• Nồng độ sản phẩm độc tích tụ trong quá trình trao đổi chất; 
• Lượng các chất cấu tạo tế bào; 
• Hàm lượng oxy hoà tan. 

Để thiết kế và vận hành hệ thống bùn hoạt tính hiếu khí một cách hiệu quả cần phải hiểu rõ vai trò quan trọng của quần thể vi sinh vật. Các vi sinh vật này sẽ phân huỷ các chất hữu cơ có trong nước thải và thu năng lượng để chuyển hoá thành tế bào mới, chỉ một phần chất hữu cơ bị oxy hoá hoàn toàn thành CO2, H2O, NO3-, SO42-, … 

Một cách tổng quát, vi sinh vật tồn tại trong hệ thống bùn hoạt tính bao gồm nhiều loại vi khuẩn khác nhau cùng tồn tại. Yêu cầu chung khi vận hành hệ thống bùn hoạt tính hiếu khí là nước thải được đưa vào hệ thống cần có hàm lượng SS không vượt quá 150 mg/l, hàm lượng sản phẩm dầu mỏ không quá 25mg/l, pH = 6,5 – 8,5, nhiệt độ 6oC< toC< 37oC. 

2. Công nghệ xử lý sinh học dạng mẻ (SBR)



   

Quy trình xử lý nước thải SBR

Bể hoạt động gián đoạn là hệ thống xử lý nước thải với bùn hoạt tính theo kiểu làm đầy và xả cạn. Quá trình xảy ra trong bể SBR tương tự như trong bể bùn hoạt tính hoạt động liên tục chỉ có điều tất cả xảy ra trong cùng một bể và được thực hiện lần lượt theo các bước: (1) – Làm đầy; (2) – Phản ứng; (3) – Lắng; (4) – Xả cặn; (5) – Ngưng.

3. Công nghệ sinh học tăng trưởng dính bám

Bể Bùn Hoạt Tính Với Vi Sinh Vật Sinh Trưởng Dạng Dính Bám: Nguyên lý hoạt động của bể này tương tự như trường hợp vi sinh vật sinh trưởng dạng lơ lửng chỉ khác là vi sinh vật phát triển dính bám trên vật liệu tiếp xúc đặt trong bể.

Do có nhiều ưu điểm vượt trội về hiệu quả xử lý cũng như giảm chi phí đầu tư & vận hành nên hiện nay, việc áp dụng công nghệ sinh học tăng trưởng dính bám đang được ứng dụng khá rộng rãi. Năm 2010, GREE đã phát triển và nâng cấp cải tiến thành công công nghệ dính bám AFBR từ công nghệ FBR. 

4. Công nghệ lọc sinh học (Trickling Filter)

  

Bể lọc sinh học Trickling Filter

Bể lọc sinh học trong xử lý nước thải là một thiết bị phản ứng sinh học trong đó các vi sinh vật sinh trưởng cố định trên lớp vật liệu lọc. Bể lọc hiện đại bao gồm một lớp vật liệu dễ thấm nước với vi sinh vật dính kết trên đó. Nước thải đi qua lớp vật liệu này sẽ thấm hoặc nhỏ giọt trên đó.

Vật liệu lọc thường là đá dăm hoặc hoặc khối vật liệu lọc có hình thù khác nhau. Nếu vật liệu lọc là đá hoặc sỏi thì kích thước hạt dao động trong khoảng 0,5 -2,5 m, trung bình là 1,8 m. Bể lọc với vật liệu là đá dăm thường có dạng tròn. Nước thải được phân phối trên lớp vật liệu lọc nhờ bộ phận phân phối. Bể lọc với vật liệu lọc là chất dẻo có thể có dạng tròn, vuông, hoặc nhiều dạng khác với chiều cao biến đổi từ 4 – 12 m. Ba loại vật liệu bằng chất dẻo thường dùng là (1) vật liệu với dòng chảy thẳng đứng, (2) Vật liệu với dòng chảy ngang, (3) vật liệu đa dạng. 

Chất hữu cơ sẽ bị phân huỷ bởi quần thể vi sinh vật dính kết trên lớp vật liệu lọc. Các chất hữu cơ có trong nước thải sẽ bị hấp phụ vào màng vi sinh vật dày 0,1 – 0,2 mm và bị phân huỷ bởi vi sinh vật hiếu khí. Khi vi sinh vật sinh trưởng và phát triển, bề dày lớp màng tăng lên, do đó, oxy đã bị tiêu thụ trước khi khuếch tán hết chiều dày lớp màng sinh vật. Như vậy, môi trường kị khí được hình thành ngay sát bề mặt vật liệu lọc. 

Khi chiều dày lớp màng tăng lên, quá trình đồng hoá chất hữu cơ xảy ra trước khi chúng tiếp xúc với vi sinh vật gần bề mặt vật liệu lọc. Kết quả là vi sinh vật ở đây bị phân huỷ nội bào, không còn khả năng dính bám lên bề mặt vật liệu lọc và bị rửa trôi. 

Chủ Nhật, 22 tháng 3, 2015

XỬ LÝ NƯỚC THẢI HIỆU QUẢ BẰNG THỦY SINH THỰC VẬT

Xử lý nước thải bằng tảo

Tảo là nhóm vi sinh vật có khả năng quang hợp, chúng có cấu  ở dạng đơn bào, hoặc đa bào (như các loài rong biển, có chiều dài tới vài mét). Tảo được phân loại dựa trên các loại sản phẩm mà tảo tổng hợp được và chứa trong tế bào của chúng, các loại sắc tố của tảo để phân loại chúng.
Tảo có tốc độ sinh trưởng phát triển nhanh, thích nghi tốt với các thay đổi của môi trường, có khả năng phát triển trong nước thải, có giá trị dinh dưỡng và hàm lượng protein cao, do đó người ta đã phát huy các đặc điểm này của tảo để:
1. Xử lý nước thải và tái sử dụng chất dinh dưỡng. Các hoạt động sinh học trong các ao nuôi tảo lấy đi các chất hữu cơ và dinh dưỡng của nước thải chuyển đổi thành các chất dinh dưỡng trong tế bào tảo qua quá trình quang hợp. Đa số các loại nước thải đô thị, nông nghiệp, phân gia súc đều có thể được xử lý bằng hệ thống ao tảo.
2. Biến năng lượng mặt trời sang năng lượng trong các cơ thể sinh vật. Tảo dùng năng lượng mặt trời để quang hợp tạo nên đường, tinh bột... Chính vì vậy việc sử dụng tảo để xử lý nước thải được coi là một phương pháp hữu hiệu để chuyển đổi năng lượng mặt trời thành năng lượng của cơ thể sống.

Tảo Eulgena
3. Tiêu diệt các mầm bệnh. Thông qua việc xử lý nước thải bằng cách nuôi tảo các mầm bệnh có trong nước thải sẽ bị tiêu diệt do các yếu tố sau đây:
  • Sự thay đổi pH trong ngày của ao tảo do ảnh hưởng của quá trình quang hợp 
  • Các độc tố tiết ra từ tế bào tảo 
  •  Và sự tiếp xúc của các mầm bệnh với bức xạ mặt trời (UV)
Thông thường người ta kết hợp việc xử lý nước thải và sản xuất và thu hoạch tảo để loại bỏ chất hữu cơ trong nước thải.
Các phản ứng diễn ra trong ao tảo chủ yếu là "hoạt động cộng sinh giữa tảo và vi khuẩn".
 Các yếu tố cần thiết cho quá trình xử lý nước thải bằng tảo
Tảo Ceratium
Dưỡng chất: Ammonia là nguồn đạm chính cho tảo tổng hợp nên protein của tế bào thông qua quá trình quang hợp. Phospho, Magnesium và Potassium cũng là các dưỡng chất ảnh hưởng đến sự phát triển của tảo. Tỉ lệ P, Mg và K trong các tế bào tảo là 1,5 : 1 : 0,5.
Độ sâu của ao tảo: độ sâu của ao tảo được lựa chọn trên cơ sở tối ưu hóa khả năng của nguồn sáng trong quá trình tổng hợp của tảo. Theo các cơ sở lý thuyết thì độ sâu tối đa của ao tảo khoảng 4,5 ¸ 5 inches (12,5cm). Nhưng những thí nghiệm trên mô hình cho thấy độ sâu tối ưu nằm trong khoảng 8 ¸ 10 inches (20 ¸ 25cm). Tuy nhiên trong thực tế sản xuất, độ sâu của ao tảo nên lớn hơn 20cm (và nằm trong khoảng 40 ¸ 50 cm) để tạo thời gian lưu tồn chất thải trong ao tảo thích hợp và trừ hao thể tích mất đi do cặn lắng.
Thời gian lưu tồn của nước thải trong ao (HRT): thời gian lưu tồn của nước thải tối ưu là thời gian cần thiết để các chất dinh dưỡng trong nước thải chuyển đổi thành chất dinh dưỡng trong tế bào tảo. Thường thì người ta chọn thời gian lưu tồn của nước thải trong các ao lớn hơn 1,8 ngày và nhỏ hơn 8 ngày.
Tảo Chlamydomonas
Lượng BOD nạp cho ao tảo: lượng BOD nạp cho ao tảo ảnh hưởng đến năng suất tảo vì nếu lượng BOD nạp quá cao môi trường trong ao tảo sẽ trở nên yếm khí ảnh hưởng đến quá trình cộng sinh của tảo và vi khuẩn. Một số thí nghiệm ở Thái Lan cho thấy trong điều kiện nhiệt đới độ sâu của ao tảo là 0,35 m, HRT là 1,5 ngày và lượng BOD nạp là 336 kg/(ha/ngày) là tối ưu cho các ao tảo và năng suất tảo đạt được là 390 kg /(ha/ngày).
Khuấy trộn và hoàn lưu: quá trình khuấy trộn trong các ao tảo rất cần thiết nhằm ngăn không cho các tế bào tảo lắng xuống đáy và tạo điều kiện cho các dinh dưỡng tiếp xúc với tảo thúc đẩy quá trình quang hợp. Trong các ao tảo lớn khuấy trộn còn ngăn được quá trình phân tầng nhiệt độ trong ao tảo và yếm khí ở đáy ao tảo. Nhưng việc khuấy trộn cũng tạo nên bất lợi vì nó làm cho các cặn lắng nổi lên và ngăn cản quá trình khuếch tán ánh sáng vào ao tảo. Moraine và các cộng sự viên (1979) cho rằng tốc độ dòng chảy trong ao tảo chỉ nên ở khoảng 5 cm/s. Hoàn lưu giúp cho ao tảo giữ lại được các tế bào vi khuẩn và tảo còn hoạt động; giúp cho quá trình thông thoáng khí, thúc đẩy nhanh các phản ứng trong ao tảo.
Thu hoạch tảo: tảo có thể được thu hoạch bằng lưới hoặc giấy lược, thu hoạch bằng cách tạo bông cặn hoặc tách nổi, thu hoạch sinh học bằng các loài cá ăn thực vật và động vật không xương sống ăn tảo.
Xử lý nước thải bằng thủy sinh thực vật có kích thước lớn
Tảo Dinobryon
Thủy sinh thực vật là các loài thực vật sinh trưởng trong môi trường nước, nó có thể gây nên một số bất lợi cho con người do việc phát triển nhanh và phân bố rộng của chúng. Tuy nhiên lợi dụng chúng để xử lý nước thải, làm phân compost, thức ăn cho người, gia súc có thể làm giảm thiểu các bất lợi gây ra bởi chúng mà còn thu thêm được lợi nhuận.
Các loại thủy sinh thực vật chính
Thủy thực vật sống chìm: loại thủy thực vật này phát triển dưới mặt nước và chỉ phát triển được ở các nguồn nước có đủ ánh sáng. Chúng gây nên các tác hại như làm tăng độ đục của nguồn nước, ngăn cản sự khuyếch tán của ánh sáng vào nước. Do đó các loài thủy sinh thực vật này không hiệu quả trong việc làm sạch các chất thải.
Thủy thực vật sống trôi nổi: rễ của loại thực vật này không bám vào đất mà lơ lửng trên mặt nước, thân và lá của nó phát triển trên mặt nước. Nó trôi nổi trên mặt nước theo gió và dòng nước. Rễ của chúng tạo điều kiện cho vi khuẩn bám vào để phân hủy các chất thải.
Thủy thực vật sống nổi: loại thủy thực vật này có rễ bám vào đất nhưng thân và lá phát triển trên mặt nước. Loại này thường sống ở những nơi có chế độ thủy triều ổn định.
Một số thủy sinh thực vật tiêu biểu
Loại
Tên thông thường
Tên khoa học
Thuỷ sinh thực vật sống chìm
HydrillaHydrilla verticillata
Water milfoilMyriophyllum spicatum
BlyxaBlyxa aubertii
Thuỷ sinh thực vật sống trôi nổi trôi nổi
Lục bìnhEichhornia crassipes
Bèo tấmWolfia arrhiga
Bèo tai tượngPistia stratiotes
SalviniaSalvinia spp
Thuỷ sinh thực vật sống nổi
CattailsTypha spp
BulrushScirpus spp
SậyPhragmites communis

Nhiệm vụ của thuỷ sinh thực vật trong các hệ thống xử lý
Phần cơ thể
Nhiệm vụ
Rễ và/hoặc thân Là giá bám cho vi khuẩn phát triển
Lọc và hấp thu chất rắn
Thân và /hoặc lá ở mặt nước hoặc phía trên mặt nướcắnHáp thu ánh mặt trời do đóẳngn cản sự phát triển của tảo
làm giảm ảnh hưởng của gió lên bề mặt xử lý
Làm giảm sự trao đổi giữa nước và khí quyển
Chuyển oxy từ lá xuống rể



CON NGƯỜI SẼ SỐNG SAO KHI NGUỒN NƯỚC NGÀY CÀNG Ô NHIỄM ?

Hiện nay nguồn nước ngày càng bị ô nhiễm, không những ở Việt Nam mà hầu hết các nước trên thế giới đang đứng trước nguy cơ thiếu nước sạch trong tương lai. Không những thế biến đổi khí hậu ngày càng diễn biến phức tạp,Trái Đất đang dần nóng lên, hãy thử suy nghĩ chúng ta sẽ sống thế nào khi cả nước rơi vào tình trạng khô hạn như miền Trung nhất là Bình Thuận hiện nay, các sông ở Nam Bộ bị xâm mặn, các sông ở đồng bằng sông Hồng và Hà Nội bị ô nhiễm và bồi lắp dần?

Chúng ta sống như thế nào đây khi các nước láng giềng ngăn sông xây đập để giữ nước lại ? Chúng ta sẽ sống thế nào đây khi 12 triệu dân ở ĐBSCL không còn nhà cửa, ruộng vườn, nguồn sống ? Đó là những câu hỏi đặt ra trong ngày nước thế giới năm nay.


Càng ngày, người ta càng lo lắng sẽ đến một ngày mọi tài nguyên trên trái đất đều cạn kiệt và để đề phòng thảm họa đó, người ta bắt đầu tiết kiệm, để dành tài nguyên, tranh thủ dùng các tài nguyên có thể tái tạo được như điện gió, điện mạt trời, dùng lại rác thải, trồng rừng lấy gỗ…

Duy có một tài nguyên là nước thì gần như chưa ai chú ý, nhất là những nước đang phát triển, nắng lắm mưa nhiều, trình độ dân trí thấp. Nước có mặt ở khắp nơi, ngay trong cơ thể ta cũng 70% là nước, trái đất ¾ là nước, ao hồ, sông suối, biển mênh mông nước. Nước còn tự tái tạo, dù bẩn đến đâu, nước bay hơi rồi tụ lại thành mưa, lại có nước sạch. 

Nước nhiều lại có thể tự tái tạo như vậy nên vấn để tiết kiệm nước, từ hàng ngàn đời nay ở nước ta, chưa được đặt ra hoặc có đặt ra thì cũng chỉ là lời cảnh báo xa xôi. 

Chúng ta quen chống lụt, “ nghiêng đồng đổ nước ra sông”, thảng hoặc mới phải “ vắt đất ra nước, thay trời làm mưa.”. Điều đó đã ăn sâu vào tiềm thức của nhiều thế hệ. Nước ta là một trong những nước trên thế giới sử dụng lãng phí nước nhất, tội lãng phí nước gần như chưa bị lên án trong cả luật pháp lẫn đạo đức xã hội.

Nhưng thực tế khắc nghiệt hơn chúng ta tưởng. Việt Nam là một trong những quốc gia khan hiếm nước đang bị xa mạc hóa. Hơn 2/3 nước của các sông, suối là nguồn nguồn từ nước ngoài. Hàng năm, một nửa nước Việt Nam rơi vào nắng nóng, khô hạn suốt 6 tháng. 

Cũng hàng năm, hàng triệu người Việt Nam thiếu nước uống, chưa kể cây trồng và gia súc không có nước. Do thiếu nước, trên 10 triệu héc ta đất của Việt Nam đang bị sa mạc hóa. 

Tầng nước ngầm của Việt Nam, nhất là đồng bằng sông Cửu Long, đồng bằng sông Hồng và Tây Nguyên bị ô nhiễm, cạn kiệt dần do giếng bơm, nước tưới cà phê phá hỏng. 

Nước ta hiện có gần 500 hồ chữa thì một nửa trong số đó đang bị sụt lún, nứt vỡ, không chỉ không thể tích nước an toàn mà còn đe dọa tính mạng của con người. Và nguy hiểm hơn, tất cả các dòng sông, nhất là các dòng sông nội địa đều bị ô nhiễm nặng. 

Không còn con sông nào quanh khu vực Hà Nội có thể dùng làm nước sinh hoạt cho người. Nhiều sông, hồ ô nhiễm đến mức cá, tôm và các loại thủy sản không thể sống nổi.

Trong khi đó, người Hà Nội lãng phí nước vào loại nhất nước. Theo một thống kê, trung bình mỗi năm, ngươig Hà Nội cho chảy ra môi trường 40.000 m3 nước sạch do rỏ rỉ, vỡ đường ống, không đóng vòi khi dùng xong (Chỉ cần một người đánh răng không khóa vòi nước khi thao tác, tiêu tốn 20 lít nước). Sự kiện 10 lần vỡ ống đẫn nước của nhà máy nước mặt sông Đà, tốn phí hàng nghìn m3 nước. 

Hậu quả lâu dài của tình trạng lãng phí nước đã khiến người dân Hà Nội không được cung cấp đủ nước, công ty cấp nước luôn lỗ, các sông quanh Hà Nội đều bị ô nhiễm nặng, gần 50 hồ nước đang bị đe dọa biến mất trên bản đồ, mặt bằng Hà Nội đang bị lún dần do khai thác nước ngầm quá mức, nhiều giếng nước nhiễm độc nặng nề.