Thứ Tư, 10 tháng 12, 2014

BÁO ĐỘNG THỰC TRẠNG Ô NHIỄM NGUỒN NƯỚC


Ô nhiễm nguồn nước - thực trạng đáng báo động

Sự bùng nổ dân số cùng với tốc độ đô thị hóa, công nghiệp hóa nhanh chóng đã tạo ra sức ép lớn tới môi trường sống ở Việt Nam. Đặc biệt, nguồn nước sinh hoạt ngày càng trở nên thiếu hụt và ô nhiễm.

 

Ô nhiễm nước được phân làm hai loại: nguồn gốc tự nhiên (do mưa tuyết, bão lụt.. đưa vào nguồn nước những chất thải) và nguồn gốc nhân tạo (quá trình thải các chất độc hại vào môi trường nước).

Hầu hết sông hồ ở các thành phố lớn như Hà Nội và TP HCM, nơi có dân cư đông đúc và nhiều khu công nghiệp lớn đều bị ô nhiễm. Phần lớn lượng nước thải sinh hoạt (khoảng 600.000 m3 mỗi ngày, với khoảng 250 tấn rác được thải ra các sông ở khu vực Hà Nội) và công nghiệp (khoảng 260.000 m3 nhưng chỉ có 10% được xử lý) đều không được xử lý, mà đổ thẳng vào các ao hồ, sau đó chảy ra các con sông lớn tại vùng Châu Thổ sông Hồng và sông Mê Kông. Ngoài ra, nhiều nhà máy và cơ sở sản xuất như các lò mổ và ngay bệnh viện (khoảng 7.000 m3 mỗi ngày, chỉ 30% là được xử lý) cũng không được trang bị hệ thống xử lý nước thải.

Nhiều ao hồ và sông ngòi tại Hà Nội bị ô nhiễm nặng, đáng lưu ý là hệ thống hồ trong công viên Yên Sở. Đây được coi là thùng chứa nước thải của Hà Nội với hơn 50% lượng nước thải của thành phố. Người dân trong khu vực này không có đủ nước sạch cho nhu cầu sinh hoạt và tưới tiêu. Điều kiện sống của họ cũng bị đe dọa nghiêm trọng vì nhiều khu vực trong công viên là nơi nuôi dưỡng mầm mống của dịch bệnh.

Mặc dù mở cửa từ năm 2002 nhưng công viên Yên Sở không được sử dụng hiệu quả do sự ô nhiễm và mùi ô uế bốc lên từ hồ. Vì vậy, quá trình phát triển vẫn dậm chân tại chỗ. Nhiều sông hồ ở phía Nam thành phố như Tô Lịch và Kim Ngưu cũng đang nằm trong tình trạng ô nhiễm như vậy.

Hậu quả chung của tình trạng ô nhiễm nước là tỷ lệ người chết do các bệnh liên quan như viêm màng kết, tiêu chảy, ung thư ngày càng tăng. Ngoài ra, tỷ lệ trẻ em tử vong tại các khu vực bị ô nhiễm nguồn nước cũng rất cao.

Chiến lược lâu dài là có thể cung cấp những nguồn nước uống an toàn đã qua xử lý và cải thiện hệ thống vệ sinh. Chiến lược ngắn hạn là sử dụng những phương pháp xử lý nước đơn giản tại hộ gia đình như lọc nước, đun sôi nước bằng lượng nhiệt thừa từ nấu nướng. Việc xây dựng thói quen rửa tay cũng có thể bảo vệ hàng triệu con người.

Bên cạnh đó, ngoài chiến dịch truyền thông nâng cao nhận thức, cũng cần phải áp dụng những quy định nghiêm ngặt hơn đối với vấn đề kiểm soát ô nhiễm, buộc tất cả mọi doanh nghiệp - từ quy mô nhỏ đến lớn phải đáp ứng được những tiêu chuẩn tối thiểu. Xét cho cùng, nước sạch và không khí trong lành là những điều thiết yếu để có được một cuộc sống khỏe mạnh.

Điều quan trọng nhất là Chính phủ cần đầu tư và xây dựng những dự án nước sạch cũng như các công trình xử lý nước thải để hỗ trợ cho chiến dịch này, thu hút người dân tham gia.

Đặc biệt, người dân cần được nâng cao nhận thức bằng các chiến dịch tuyên truyền có giá trị thực tế. Nhờ đó, người dân có thể tiếp cận vấn đề một cách rõ ràng nhất, hiểu được ích lợi của việc bảo vệ nguồn nước. Các trường phổ thông cũng nên có những chương trình tuyên truyền về ô nhiễm môi trường nói chung và ô nhiễm nguồn nước nói riêng để các bạn trẻ chung tay trong việc bảo vệ môi trường sống.
Sưu tầm sapuwa.vn

XỬ LÝ NƯỚC SAU LŨ BẰNG HÓA CHẤT

 Xử lý nước là nhu cầu  và nỗi lo của người dân khi mưa lớn, kéo dài, nước ngập tràn, cuốn trôi tất cả mọi thứ ô uế có trên mặt đất như chất thải từ cống rãnh, nhà tiêu, xác súc vật, chuồng gia súc gia cầm, cây cối… làm nước và môi trường bị ô nhiễm nghiêm trọng kéo theo phát sinh và làm lan truyền các mầm bệnh. Ở những vùng bị ngập nước, các nguồn nước, công trình cấp, thoát nước, công trình vệ sinh bị phá hủy làm tăng nguy cơ gây bệnh đường tiêu hóa, bệnh truyền nhiễm như tiêu chảy, dịch tả, thương hàn…, bệnh ngoài da dễ lây lan.

gieng nuoc ngap trong lu can duoc khu trung nuoc truoc khi su dung Xử lý nước sau lũ bằng hóa chất
Nguyên nhân là do nguồn nước bị ô nhiễm nghiêm trọng. Vì thế, khử trùng nước (xứ lý nước) ăn uống và sinh hoạt là việc làm cấp bách sau mỗi đợt lũ lụt xảy ra.
Xử lý nước ăn.
Có thể xứ lý nước bằng phương pháp lý học hoặc phương pháp hóa học. Khử trùng bằng phương pháp lý học là xử lý bằng cách đun sôi hoặc chiếu xạ, bảo đảm nước uống an toàn. Nhưng phương pháp lý học cho dù đơn giản nhưng lại không thực tế, khó tiến hành do không có chỗ để đặt bếp đun, không có nhiên liệu đốt và tốn kém. Mặt khác, khi đã xứ lý nước vẫn có thể bị tái nhiễm do sử dụng vào bảo quản tại nhà. Việc sử dụng hóa chất xứ lý nước được thực tế chứng minh là tiện và lợi hơn rất nhiều. Một số hóa chất khử trùng(như clo, iốt) có thể tồn tại trong nước một thời gian sau khi tiếp xúc. Lượng hóa chất thừa rất cần thiết vì nó có thể hạn chế sự phát triển của vi khuẩn tới mức tối thiểu, cũng như ảnh hưởng của tái nhiễm. Đó là một trong những lý do vì sao clo được coi là hóa chất khử trùng nước uống thông dụng nhất.
Loại hóa chất xứ lý nước đang được sử dụng rộng rãi nhất ở Việt Nam hiện nay là cloramin B và cloramin T. Đây là những hóa chất xứ lý nước mà Bộ Y tế cấp cho các địa phương để xứ lý nước cho nhân dân trong và sau bão lụt. Cloramin B hoặc cloramin T được sử dụng dưới hai dạng: viên 0,25g và bột. Hàm lượng clo hoạt tính của loại bột thông thường là 25%, mỗi viên có thể dùng cho 25 lít nước.
Nếu xứ lý nước bằng bột cloramin B, clorua vôi thì theo tỷ lệ sau: 30 lít nước cần 0,3g cloramin B 25% hoặc 0,4g clorua vôi 20%. Có thể dùng thìa canh để đong bột hóa chất, mỗi thìa canh đầy tương đương 10g, như vậy để khử 300 lít nước cần khoảng 1/3 thìa canh bột cloramin B. Lượng hóa chất khử trùng này phải được hòa tan đều trong nước và để sau 30 phút là có thể dùng được nước. Nước này vẫn phải đun mới uống được.
Ngoài ra hiện nay có một số hóa chất xứ lý nước khác đang lưu hành trên thị trường Việt Nam là:
Hypoclorit canxi (thường gọi là clorua vôi, chất tẩy nhiệt đới, bột tẩy “HTH” – High Test Hypoclorit) là loại bột chứa 20-70% clo hoạt tính. Hypoclorit canxi thường được sử dụng dưới dạng dung dịch để khử trùng tại nông thôn, tại các hệ thống cấp nước cỡ nhỏ; hoặc dưới dạng chứa trong các dụng cụ thẩm thấu, hoặc dưới dạng viên nén sử dụng cho gia đình. Khử trùng bằng clorua vôi thì theo tỷ lệ sau: 30 lít nước cần 0,4g clorua vôi 20%. Cách khử trùng giống như dùng cloramin B.
Hypoclorit natri (chất tẩy và chất sát trùng) được sản xuất ở dạng dung dịch. Dung dịch hypoclorit natri chứa khoảng từ 1-18% clo hoạt tính nghĩa là chứa rất nhiều nước. Hypoclorit natri có thể bị hư hỏng nhanh chóng bởi ánh sáng, nhiệt độ và không khí, vì vậy phải được bảo quản tại những nơi kín, khô và mát, trong các thùng không gỉ (thí dụ bằng nhựa, gốm, thủy tinh tối màu hoặc bê tông). Nếu nước đục, lọc qua vải sạch hoặc gạn nước trong hoặc tốt nhất là cả hai để khử trùng. Nước định khử trùng phải để trong bình không ăn mòn, đậy kín. Tùy theo nồng độ clo trong hóa chất mà dùng liều lượng phù hợp. Khuấy nước đã được xử lý thật kỹ rồi để yên, có nắp đậy thì tốt, trong 30 phút. Nước sẽ hơi có mùi clo. Nếu không, lặp lại liều cũ và để nguyên trong 15 phút. Nếu nước đã xử lý có mùi clo quá mạnh, để nước đứng yên tiếp xúc với không khí vài giờ hoặc đổ nước từ bình này sang bình khác vài lần.
Viên aquatabs, đây cũng là một loại hóa chất khử trùng bằng clo hoạt tính được đóng thành viên có thành phần chủ yếu là dichloroisocyanurate natri, khi hòa tan vào nước sẽ giải phóng ra clo. Viên aquatabs được đóng dưới dạng viên nén với 4 loại hàm lượng: 3,5mg để khử trùng cho thể tích nước tương ứng là 1 lít nước, 17mg để khử trùng 5 lít, 67mg để khử trùng 20 lít nước và 500mg dùng để khử trùng 150 lít nước.
Xử lý nước giếng
Nhiều gia đình chủ động dùng ni lông và nắp bịt miệng giếng nhưng mưa lớn, nước lũ vẫn làm ô nhiễm nước trong giếng. Vì thế việc đầu tiên cần làm là thau rửa giếng: khơi thông tất cả các vũng nước xung quanh khu vực giếng; tháo bỏ nắp và ni lông bịt giếng; nạo vét bùn cặn trong giếng. Tuy nhiên không phải lúc nào cũng có thể nạo vét giếng dễ dàng nên có thể tiến hành khử trùng ngay nước trong giếng để sử dụng.
Làm trong nước giếng:
Dùng phèn chua (loại thường dùng là phèn nhôm) với liều lượng 50g/1m3 nước, nếu nước đục nhiều có thể cho lượng phèn tối đa tới 100g/m3. Hòa tan hết lượng phèn cần thiết vào một gầu nước, tưới đều lên giếng nước, thả gầu chìm sâu xuống nước rồi kéo mạnh lên khoảng 10 lần rồi để sau 30 phút đến 1 giờ cho cặn lắng hết thì tiến hành khử trùng.
Khử trùng nước giếng:
Về nguyên tắc nước giếng sau khử trùng phải có nồng độ clo thừa là 0,5 – 1,0 mg/lít. Tính lượng cloramin B cần thiết cho giếng nước trên cơ sở nồng độ cần thiết là 10g cloramin B 25%/m3. Có thể dùng một số hóa chất như clorua vôi 20% (13g/m3), hoặc clorua vôi 70% (4g/m3).
Cách thực hiện: múc một gầu nước, hòa lượng hóa chất nói trên vào nước, lưu ý phải khuấy cho tan hết. Tưới đều gầu nước này vào giếng. Thả gầu cho chìm sâu đến nửa cột nước rồi kéo lên xuống nhẹ nhàng khoảng 10 lần. Dùng nước này dội lên thành giếng để khử trùng, để khoảng 30 phút sau là có thể dùng được. Nước đã khử trùng bằng cloramin vẫn phải đun sôi mới được uống.
Xử lý nước giếng khoan thì phải bơm hết nước đục và bơm tiếp 15 phút nữa bỏ nước đi sau đó có thể sử dụng được. Cần chú ý làm vệ sinh bơm, sàn giếng.
Làm trong nước: Dùng phèn chua với liều lượng 1g phèn chua cho 20 lít nước. Hoà tan lượng phèn cần thiết cho lượng nước cần làm trong, chờ khoảng 30 phút cho cặn lắng xuống đáy rồi gạn lấy nước trong. Nếu không có phèn chua thì dùng vải sạch để lọc nước giữ lại các cặn bẩn, làm vài lần cho đến khi nước trong.
Khử trùng bằng hóa chất xứ lý nước: Có thể dùng cloramin T hoặc B dạng viên hàm lượng 0,25g, mỗi viên có thể dùng cho 25 lít nước. Nếu khử trùng bằng bột cloramin B, clorua vôi thì theo tỷ lệ sau : 30 lít nước cần 0,3g cloramin B 25% hoặc 0,4g clorua vôi 20%. Có thể dùng thìa canh để đong bột hoá chất, mỗi thìa canh đầy tương đương 10 g, như vậy để khử 300lít nước cần khoảng 1/3 thìa canh bột cloramin B. Lượng hoá chất khử trùng này phải được hoà tan đều trong nước và để sau 30 phút là có thể dùng được nước. Nước này vẫn phải đun sôi mới uống được.

HƯNG YÊN, CÔNG TY BEEAHN VIỆT BAN BỊ XỬ PHẠT HƠN 120 TRIỆU ĐỒNG VÌ XẢ THẢI GÂY Ô NHIỄM.

(Tinmoitruong.vn) - Công ty BEEAHN Việt Nam có trụ sở tại thôn Cao Xá, thị trấn Trần Cao, huyện Phù Cừ vừa bị UBND tỉnh Hưng Yên ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, tổng số tiến phạt là hơn 120 triệu đồng.



Ảnh minh họa: IE

Công ty may BEEAHN Việt Nam chuyên sản xuất các sản phẩm may, thêu xuất khẩu đi vào hoạt động từ năm 2007. Công ty này bị lực lượng Cảnh sát phòng chống tội phạm về môi trường - Công an tỉnh Hưng Yên phát hiện đã xả nước thải vượt quy chuẩn kỹ thuật về chất thải từ 10 lần trở lên, vi phạm Điểm b, Khoản 4, Điều 13, Nghị định số 179/2013NĐ-CP của Chính phủ. Theo dư luận nhân dân thị trấn Trần Cao, với nguồn nước thải từ máy giặt mềm không qua xử lý, Công ty BEEAHN Việt Nam đã xả trực tiếp ra môi trường, làm ô nhiễm nguồn nước sản xuất và sinh hoạt của khu dân cư. 

Ngoài xử phạt bằng tiền, UBND tỉnh Hưng Yên còn yêu cầu Công ty BEEAHN Việt Nam dừng ngay việc xả thải chưa đạt quy chuẩn về chất thải ra ngoài môi trường, có biện pháp xử lý nước thải ra môi trường đạt quy chuẩn theo QCVN 14:2008/BTNMT trước khi xả thải và thực hiện nghiêm các quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường. Tỉnh cũng chỉ đạo ngành chức năng tiếp tục theo dõi, kiểm tra đôn đốc và giám sát việc chấp hành quy định xử phạt của doanh nghiệp này.

Trước đó 2 tháng, UBND tỉnh Hưng Yên cũng đã ra quyết định xử phạt Công ty trách nhiệm hữu hạn Tuấn Cường Plastic số tiền gần 220 triệu đồng do gây ô nhiễm môi trường đối với 2 xã Chỉ Đạo và Minh Hải ở huyện Văn Lâm; đồng thời đình chỉ hoạt động xả nước thải sản xuất ra môi trường.

Hiện nay, tại các khu công nghiệp trên địa bàn Hưng Yên có hàng chục doanh nghiệp xả thải gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, ảnh hưởng lớn tới đời sống và sản xuất của người dân. Mặc dù nhiều doanh nghiệp bị xử phạt nhiều lần nhưng vẫn tiếp tục tái phạm, gây bức xúc trong dư luận.
Theo tinmoitruong.vn

BỊ PHẠT HAI LẦN, VẪN GÂY Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG

Ngày 9.12, tin từ Phòng Cảnh sát phòng chống tội phạm về môi trường (PC49) - Công an TP.Cần Thơ cho biết đơn vị này đang hoàn tất các thủ tục để đề nghị UBND TP.Cần Thơ ra quyết định xử phạt Công ty CP chế biến thực phẩm Sông Hậu (xã Thới Hưng, H.Cờ Đỏ, TP.Cần Thơ), do ông Nguyễn Tấn Thanh (40 tuổi, ngụ Q.4, TP.HCM) làm giám đốc, với tình tiết tăng nặng.

2 lần bị phạt vẫn tiếp tục gây ô nhiễm môi trường
PC49 lấy mẫu nước thải tại hiện trường - Ảnh: PC49 cung cấp
Theo PC49, thời gian qua, người dân địa phương đã làm đơn gửi các ngành chức năng về việc Công ty CP chế biến thực phẩm Sông Hậu trong quá trình sản xuất vẫn tiếp tục xả nước thải không qua xử lý gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, ảnh hưởng đến đời sống, sản xuất của người dân. Trước đó ngày 26.4.2012, công ty này đã bị UBND TP.Cần Thơ ra quyết định xử phạt 85 triệu đồng về hành vi xả nước thải vượt quy chuẩn kỹ thuật về chất thải ra môi trường. Tiếp đến ngày 12.8.2014, qua kiểm tra, Tổng cục Môi trường tiếp tục ra quyết định xử phạt với số tiền trên 778 triệu đồng về các hành vi xả nước thải vượt quy chuẩn kỹ thuật về chất thải, thải dầu mỡ vào môi trường nước không đúng quy định, không thu gom triệt để chất thải vào khu vực lưu giữ tạm thời… đồng thời buộc đình chỉ hoạt động sản xuất gây ô nhiễm trong thời hạn 3 tháng (25.9 đến 25.12).
Thế nhưng, lúc 18 giờ 15 ngày 20.11, PC49 kết hợp cùng các ngành chức năng bất ngờ kiểm tra thì phát hiện công ty này vẫn đang hoạt động và tiếp tục xả nước thải không qua xử lý ra môi trường bằng cách lắp đặt hai đường ống nhựa PVC có đường kính 20 cm dài khoảng 20 m và dùng máy bơm để bơm trực tiếp từ bồn chứa nước thải chưa qua xử lý ra kênh đào nông trường Sông Hậu, với lưu lượng 70 m3/ngày. Lực lượng kiểm tra đã lấy mẫu nước thải tại hiện trường để phân tích. Kết quả phân tích mẫu nước trên cho thấy, trong 9 thông số cho phép thì có 4 thông số vượt dưới 5 lần, 2 thông số vượt trên 10 lần quy chuẩn cho phép.
Theo thanhnien.com

Thứ Ba, 9 tháng 12, 2014

XÂY DỰNG CHÍNH SÁCH RIÊNG ĐỂ KIỂM SOÁT Ô NHIỄM NGUỒN NƯỚC

Sáng 22/11/2014, tại Hà Nội, Liên minh Vận động Kiểm soát và Ngăn ngừa Ô nhiễm nước, Trung tâm Nghiên cứu Môi trường & Cộng đồng và Liên hiệp các Hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) tổ chức Hội thảo “Ô nhiễm nước và các ảnh hưởng về sức khỏe – kinh tế - Góc nhìn chính sách”. Tham dự Hội thảo có lãnh đạo Tổng cục Môi trường (Bộ TN&MT), các nhà lập pháp, nghiên cứu và chuyên gia môi trường từ các trường Đại học và Viện nghiên cứu cùng các tổ chức cơ quan liên quan.
Mục tiêu chính của Hội thảo nhằm thiết lập một diễn đàn để các nhà hoạch định chính sách và pháp lý, các nhà khoa học, chuyên gia môi trường, các doanh nghiệp và cộng đồng thảo luận kết quả nghiên cứu dựa trên bằng chứng về ảnh hưởng của ô nhiễm nước đến sức khỏe, các thiệt hại kinh tế cũng như chia sẻ kinh nghiệm quốc tế trong kiểm soát ô nhiễm nước, thảo luận và xác định các rào cản về thể chế, các nguyên nhân gây ra ô nhiễm nước tại Việt Nam, để đưa ra các khuyến nghị chính sách phù hợp nhằm xây dựng một chính sách mới về kiểm soát ô nhiễm nước tại Việt Nam.
Hội thảo tập trung thảo luận về  tình trạng ô nhiễm nước hiện nay ở Việt Nam, những ảnh hưởng của ô nhiễm nước đến sức khỏe và các thiệt hại về kinh tế, các bài học quốc tế và các chính sách về ngăn ngừa và kiểm soát ô nhiễm nước, những hạn chế về hệ thống pháp luật liên quan tới kiểm soát ô nhiễm nước và định hướng giải quyết. Đa số các đại biểu đều thống nhất, chính sách pháp luật của Nhà nước về bảo vệ môi trường nói chung và bảo vệ môi trường nước nói riêng được xây dựng trên cơ sở nhất quán và vững chắc. Tuy nhiên, vấn đề kiểm soát ô nhiễm nước chưa có quy định đầy đủ, còn rải rác trong nhiều loại hình văn bản với hiệu lực pháp lý khác nhau, do các cơ quan có thẩm quyền khác nhau ban hành, chưa có văn bản cụ thể chuyên biệt, quy định riêng về kiểm soát ô nhiễm nước. Hơn nữa yếu tố tài chính và công nghệ đầu tư cho bảo vệ môi trường nước rất ít, thiếu lồng ghép giữa công nghệ, tài chính, con người. Do đó, hiệu lực quản lý ô nhiễm nước chưa cao.
Nhận thấy việc xây dựng Luật kiểm soát ô nhiễm nước là cần thiết, Hội thảo đã đưa ra một số nhiệm vụ trọng tâm làm tiền đề cho việc xây dựng Luật kiểm soát ô nhiễm như: Rà soát, đánh giá hệ thống văn bản pháp luật hiện hành liên quan đến kiểm soát ô nhiễm nước nhằm phát hiện những vướng mắc, bất cập trong hệ thống văn bản pháp luật liên quan kiểm soát ô nhiễm nước; khảo sát thực tiễn thi hành các văn bản quy phạm pháp luật về kiểm soát ô nhiễm Nước đã ban hành trong thời gian qua; nghiên cứu kinh nghiệm nước ngoài trong việc xây dựng, ban hành và thực thi văn bản pháp luật liên quan kiểm soát ô nhiễm nước; đề xuất chương trình Luật kiểm soát ô nhiễm nước vào Chương trình nghị sự Quốc hội trong nhiệm kỳ tới đặc biệt sẽ tổ chúc nghiên cứu và soạn thảo Dự thảo Luật trình cơ quan có thẩm quyền.
Từ những thành công của Hội thảo, các nhà khoa học và chuyên gia cho rằng, cần thực hiện “Chương trình diễn đàn Bảo vệ Môi trường nước – Kiểm soát ô nhiễm nước 2015”. Bởi, kiểm soát ô nhiễm nước cần được thực hiện thường xuyên và có sự chung tay của cả cộng đồng từ đó tạo nền tảng khoa học cho việc xây dựng Luật kiểm soát ô nhiễm nước, khôi phục lại chất lượng nước mặt của Việt Nam trong vòng 20 năm để góp phần bảo vệ nguồn nước phục vụ phát triển kinh tế, dân sinh và an ninh quốc gia.

Theo http://www.monre.gov.vn

NGUỒN NƯỚC Ô NHIỄM VÀ NHỮNG ẢNH HƯỞNG ĐẾN SỨC KHỎE


Nước có vai trò vô cùng quan trọng đối với đời sống của con người. Nhưng đi liền với sự phát triển kinh tế là sự ô nhiễm môi trường ngày càng trầm trọng của môi trường trong đó có môi trường nước. Vậy ảnh hưởng của sự ô nhiễm nước đến sức khỏe của con người như thế nào? Bài viết sau sẽ giúp bạn giải đáp thắc mắc đó.

1. Nguyên nhân ô nhiễm

Ô nhiễm nước là sự biến đổi nói chung chất lượng nước, nguồn nước bị nhiễm  bẩn, gây nguy hiểm cho con người, cho sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, nuôi cá, nghỉ ngơi, giải trí, cho động vật nuôi và các loài hoang dã.
Ô nhiễm nước thường có 2 nguyên nhân:
-  Ô nhiễm nước  có nguồn gốc tự nhiên: Do mưa, tuyết tan, gió bão, lũ lụt đưa vào môi trường nước chất thải bẩn, các sinh vật và vi sinh vật có hại kể cả xác chết của chúng.
-  Ô nhiễm nước có nguồn gốc nhân tạo: Quá trình thải các chất độc hại chủ yếu dưới dạng lỏng như các chất thải sinh hoạt, công nghiệp, nông nghiệp, giao thông vào môi trường nước.
Nguồn nước ô nhiễm và những ảnh hưởng đến sức khỏe - Nước & Sức khỏe
Sản xuất công nghiệp là nguyên nhân chính khiến nguồn nước bị nhiễm bẩn kim loại nặng

2. Ảnh hưởng đến sức khỏe

Các kim loại nặng

Các kim loại nặng có trong nước là cần thiết cho sinh vật và con người vì chúng là những nguyên tố vi lượng mà sinh vật cần tuy nhiên với hàm lượng cao nó lại là nguyên nhân gây độc cho con người, gây ra nhiều bệnh hiểm nghèo như ung thư, đột biến. Đặc biệt đau lòng hơn là nó là nguyên nhân gây nên những làng ung thư. Các kim loại nặng trong nước ảnh hưởng đến sức khỏe con người là Ag, Hg, Pb, Asen, Zn…

Các hợp chất vô cơ

Các hợp chất  hữu cơ tổng hợp bao gồm các chất nhiên liệu,chất màu, thuốc trừ sâu, thuốc kích thích tăng trưởng, các phụ gia trong dược phẩm thực phẩm. Các chất này thường độc và có độ bền sinh học khá cao, đặc biệt là các hidrocacbnon thơm gây ô nhiễm môi trường mạnh, gây ảnh hưởng lớn đến sức khỏe con người. Đây chính là nguyên nhân  gây nhiễm độc mãn tính và các bệnh hiểm nghèo như ung thư bàng quang, ung thư phổi …

Vi khuẩn trong nước thải

Vi khuẩn có hại trong nước có nguồn gốc từ chất thải sinh hoạt của con người và động vật như virut gây nên bệnh tả, thương hàn và bại liệt. Nó chính là nguyên nhân gây nên các vụ dịch, lây lan các bệnh nguy hiểm, làm cho bệnh dịch ngày càng lan rộng.

Sưu tầm maylocnuocthailan.com

NƯỚC, MÔI TRƯỜNG VÀ CON NGƯỜI

Nước có khả năng tự làm sạch thông qua quá trình biến đổi lý hóa, sinh học như hấp thụ, lắng lọc, tạo keo, polyme hóa ... hoặc các quá trình trao đổi chất. Các quá trình này đạt được hiệu quả cao khi môi trường nước có đủ lượng O2. Vì vậy quá trình tự làm sạch của nước dễ thực hiện ở dòng chảy hơn là ở hồ ao nước đọng (vì quá trình đối lưu, khuếch tán O2 vào nước dễ dàng hơn, tham gia vào các quá trình chuyển hóa, làm giảm chất độc hoặc lắng đọng chất rắn hoặc tiêu diệt các vi khuẩn có hại). Khi lượng chất thải đưa vào nước quá nhiều, vượt khả năng giới hạn của quá trình tự làm sạch thì môi trường nước bị ô nhiễm – khi ấy cần biện pháp xử lý nhân tạo. Việc nhận biết nước bị ô nhiễm thường căn cứ vào trạng thái hóa học, vật lý, sinh học của nước. Ví dụ nước có mùi khó chịu, màu đục, vị không bình thường, sản lượng cá và thủy sản giảm, cỏ dại phát triển mạnh, nhiều mùn, có váng dầu mỡ.
Ô nhiễm sinh học được đánh giá theo mức độ hoại sinh:
  • Oligosaprob: giàu oxy, không nhiễm bẩn. Có thể sử dụng cho cấp nước sinh hoạt.
  • β -mesosaprob: lượng oxy hòa tan giảm, hơi nhiễm bẩn, do có nhu cầu oxy hóa sinh học. Số lượng tảo và vi sinh vật ít hơn 106/cm3. Cá, ếch, ốc sống được; có thể tưới tiêu, nuôi cá ...
  • α -mesosaprob: lượng oxy hòa tan giảm mạnh, nhiễm bẩn, nhu cầu oxy hóa sinh học cao, tạo ra acid amin trong nước, vi khuẩn và tảo có số lượng xấp xỉ 106/cm3.
  • Polysaprob: oxy hóa giảm nhanh, mạnh, nhiễm bẩn nặng. Có hiện tượng lên men, thối rữa do đó phát sinh khí H2S, chất lắng cặn và mùn hữu cơ, có ảnh hưởng xấu đến lượng nước sinh hoạt, nước tưới tiêu và nguồn thủy sản.

Chất gây ô nhiễm nước

Nước có thể bị ô nhiễm bởi các yếu tố tự nhiên như nước mặn theo thủy triều hoặc từ mỏ muối trong lòng đất vào nước và làm nước bị nhiễm Cl-, Na+ khá cao. Nồng độ muối trong nước nếu  1 g/l thì gây hại vi sinh vật,  4 g/l gây hại cho cây trồng,  8 g/l thì hầu hết thực vật đều chết (trừ thực vật ở rừng ngập mặn). Hiện nay, nước bị ô nhiễm phần lớn là do nước thải từ các nguồn sinh hoạt, dịch vụ, chế biến thực phẩm và các ngành công nghiệp khác. Chất ô nhiễm gồm các chất dạng vô cơ, hữu cơ và các vi sinh vật. Đáng chú ý là các chất có nhu cầu oxy, các chất dầu mỡ, chất rắn có thể khử được thông qua xử lý sơ cấp và thứ cấp; muối, kim loại nặng, hữu cơ khó phân hủy thường khó xử lý bằng các biện pháp sơ cấp; các bùn thải dạng cặn (sản phẩm của quá trình xử lý nước thải, có chứa nhiều lượng hữu cơ phân hủy chậm chạp và các kim loại nặng). Số lượng bùn thường rất lớn và hay đọng lại ở các kênh rạch.
Bảng 1. Một số thành phần cơ bản của nước thải đô thị
Nguồn thảiThành phầnẢnh hưởng trong nước
Hầu hết các chất hữu cơ, chất cặn bả do ngườiCác chất có nhu cầu oxyTiêu thụ oxy hòa tan
Chất thải công nghiệp và sản phẩm sinh hoạtCác chất hữu cơ ít khả năng phân hủyĐộc hại cho thủy sinh vật
Chất thải từ cơ thể ngườiVi khuẩn truyền bệnh, virusGây bệnh lây lan, ngăn cản quá trình tái sinh nước
Các chất tẩy rữa sinh hoạt
Chất tẩy rửaThiếu thẩm mỹ, cản trở quá trình vận chuyển O2, độc hại cho sinh vật
PhosphatLàm chất dinh dưỡng cho các loài rong tảo
Nhà bếp, xí nghiệp chế biến thực phẩm, chất thải công nghiệp
Dầu mỡMất thẩm mỹ, độc hại cho sinh vật
Kim loại nặngĐộc hại cho sinh vật
Các muốiTăng độ muối trong nước
Các hợp chất hữu cơVận chuyển và hòa tan ion kim loại nặng

Chất hữu cơ tổng hợp

Trên thế giới có khoảng 60 triệu tấn chất hữu cơ tổng hợp như nhiên liệu, chất dẻo, chất màu, thuốc trừ sâu, chất phụ gia, nói chung là rất độc và khá bền hoặc các hợp chất sinh học đặc biệt là các hydrocacbon thơm.

Hóa chất bảo vệ thực vật

Các chất bảo vệ thực vật (pesticides) hiện có hơn 10.000 loại chất khác nhau bao gồm thuốc trừ sâu (insecticides), thuốc diệt cỏ (herbicides), diệt nấm (fungicides), diệt chuột và các loài thú gặm nhấm (edenticides), diệt ký sinh trùng (nemalocides) ... và các loại phân bón hữu cơ khác. Nói chung, các chất bảo vệ thực vật, kích thích sinh học đều rất độc. Cũng có một số loại độc, độc vừa hoặc ít độc. Người ta thường phân loại theo thành phần hóa học gồm halogen, phospho, cacbonat, chlorophenocyanid ...

Chất tẩy rửa

Các chất tẩy rửa (detergents) gồm các dạng thành phần:
  • Các chất hoạt động bề mặt, có hoạt tính bề mặt cao, hòa tan tốt, sức căng bề mặt nhỏ, tạo ra nhũ tương, huyền phù với các chất bẩn (tách ra từ nguyên liệu giặt).
  • Các chất phụ gia, bổ sung cho chất tẩy rửa chính, tạo môi trường kiềm theo ý muốn cho hoạt động bề mặt.

Dầu mỏ

Dầu mỏ được chế biến thành nhiều loại sản phẩm dạng khí, dạng lỏng và thể rắn. Dạng khí và dạng lỏng như khí đốt, xăng, dầu hôi, nhớt ... được thải ra môi trường từ các hoạt động sản xuất, giao thông, sinh hoạt gia đình, thường được lọc lắng khi rơi vãi ra đất, nước thải.

Các chất hữu cơ tổng hợp khác

Số lượng và chủng loại vô cùng nhiều, đều là những chất tiêu thụ oxy vì chúng không bền, có khuynh hướng oxy hóa thành các dạng đơn giản hơn, sẽ lấy oxy hòa tan trong nước để oxy hóa làm giảm độ hòa tan của oxy trong nước (DO). Hàm lượng oxy hòa tan này là chỉ tiêu quan trọng để kiểm soát chất lượng nước.
Khi nhu cầu oxy hóa hóa học (COD) và nhu cầu oxy hóa sinh học (BOD) tăng thì DO giảm và nước trở nên bị ô nhiễm.

Các hợp chất dạng vô cơ

Các loại phân bón vô cơ

Thành phần chủ yếu là C, H, O2 và N, P, K dưới dạng hợp chất vô cơ và hữu cơ cùng với yếu tố vi sinh vật. Một phần khá lớn các phân bón trôi theo nước, bốc hơi, chuyển hóa hoặc thấm xuống đất và tồn lưu trong đất. Sử dụng quá thừa phân bón vô cơ sẽ gây ra hiện tượng phú dưỡng (eutrophysation) trong nước bề mặt, tạo điều kiện phát triển các loại rong, rêu , tảo .v.v… làm mất cân bằng sinh thái do thiếu DO và tăng cao BOD.

Các khoáng acid

Nước thải từ sản xuất công nghiệp, trôi theo dòng nước thải vào nước làm gia tăng độ acid, giảm độ pH của nước.
  • Các chất lắng: mưa lũ, xói mòn đất, trôi theo nước rồi lắng lại có thể làm tăng vài trăm lần mức ô nhiễm thông thường của nước sinh hoạt.
  • Các kim loại hàm lượng "vết": Có một số kim loại (như Hg, Arsen, Thalium …) với hàm lượng rất nhỏ cũng gây độc hại cho sự sống của sinh vật được thải vào nước chủ yếu từ các nguồn sản xuất và giao thông.

Chất phóng xạ

Một số dạng phóng xạ tự nhiên được tìm thấy phổ biến là Radi và K40 từ khoáng chất lọt qua thấm lọc vào nguồn nước sinh hoạt. Một số chất phóng xạ lọt ra từ các nhà máy điện nguyên tử, sản xuất vũ khí hạt nhân.

Các vi sinh vật gây bệnh

Nước thải sinh hoạt chứa khá nhiều vi sinh vật gây bệnh, đặc trưng là các dạng Coliformes, tiêu biểu là Escheria Coli gây bệnh đường ruột.

Rác

Rác tuôn ra biển (mỗi năm khoảng 6,5 triệu tấn). Plastic là loại khó phân hủy nhất, nó có thể tồn tại hơn 50 năm trong môi trường biển, hiện đang có xu hướng tăng lên.
% rác thải là plastic
Dọc bờ biển Địa Trung Hải>70%
Thái Bình Dương>80%

Một số hậu quả

  • Cơ thể con người bị nhiễm giun sán, nhiễm độc, ảnh hưởng đến sức khỏe. Gây một số bệnh thường gặp như: tả, thương hàn, kiết, giun sán, viêm gan siêu vi …
  • Gây hiện tượng phú dưỡng hóa, ảnh hưởng đến sức khỏe của người dân và năng suất hải sản.
  • Trong các mẫu cá, tôm, cua ở Vịnh Jacarta (Indonesia), Pb >4%, Hg >38%, cadmium >76%. Ở Nhật, Úc, Trung Quốc, Hàn Quốc, Thổ Nhĩ Kỳ … có nồng độ acid, thủy ngân, chì trong nước vượt quá tiêu chuẩn cho phép. Ở Malaysia, nước thải từ các nhà máy dầu cọ và cao su, từ các nhà máy khác và các khu dân cư đã làm 42 con sông coi như chết.
  • Ô nhiễm nước ngầm: Ở Châu Mỹ Latinh, các chất độc hại từ các bãi thải thâm nhập vào nước ngầm cứ 15 năm tăng gấp đôi. Tại thành phố của các nước phát triển nước ngầm bị bẩn do thiếu hệ thống xử lý và quản lý kém các hố rác tự hoại.
  • Các loại "tảo đỏ” phát triển mạnh ở vùng cửa sông, dọc bờ biển Bắc Carolina và ở bờ biển phía Nam bán đảo Scandinave. Hoa của tảo đỏ tiết ra những độc tố ảnh hưởng tới thực phẩm biển. Năm 1987, ngộ độc do thực phẩm có độc tố tảo đỏ đã giết chết 26 người Guatamala. Ở Việt Nam, tại vùng biển phía bắc Bình Thuận, từ huyện Tuy Phong trở ra, đang phải đối đầu với nạn “Thủy triều đỏ”.
  • Dầu hỏa bao phủ trên mặt nước làm cản trở khả năng quang hợp, cản trở sự trao đổi oxy, làm chết cá, chim (do ăn cá có dầu).
  • Ở cảng dọc biển Thái lan hàng năm có khoảng 50.000 chim biển chết do ngộ độc dầu.
  • Ở Anh Quốc: 250.000 chim biển, dọc bờ biển Đại Tây Dương có 400.000 con.
  • Bơi lội ở vùng biển bị ô nhiễm hữu cơ thì bị rối loạn tiêu hóa, viêm tai, viêm đường hô hấp, nguy cơ tăng bệnh viêm gan siêu vi và dịch tả.

Các thông số xác định ô nhiễm nước

Dựa vào tiêu chuẩn quốc gia TCVN hoặc các tiêu chuẩn quốc tế người ta quy định cho các loại nước những tiêu chuẩn, các thông số cần giám sát (loại A và B).
  • Nước nguồn phải giám sát các thông số như độ pH, độ trong, độ cứng, màu, độ đục, hàm lượng oxy hòa tan, Fe, Mn và kim loại nặng….
  • Nước qua sử dụng phải giám sát: độ pH, độ kiềm, độ acid, COD, BOD, N, P, S, các hóa chất, dầu mỡ và kim loại nặng….
Các tiêu chuẩn cũng được quy định theo hai loại nước nói trên.

pH

Nước trung tính có pH = 7; nếu pH < 7 là có tính acid, pH > 7 – tính kiềm. Nước ngầm thường có pH = 4-5; nước thải có pH dao động nhiều, đặc biệt trong các quá trình keo tụ, khử trùng, khử sắt, làm mềm nước, chống ăn mòn. pH là chỉ tiêu rất cần thiết cho phép xác định phương pháp xử lý nước thích hợp.
Độ acid tự nhiên là do CO2 hoặc acid vô cơ gây ra, có thể ăn mòn kim loại. CO2 là do hấp thụ từ không khí hoặc từ hoạt động oxy hóa sinh học các chất hữu cơ. Acid vô cơ thường có trong nước ngầm khi chảy qua các vùng mỏ hoặc các lớp khoáng chất, thường thấy dưới dạng hợp chất lưu huỳnh.
Độ kiềm tự nhiên là do 3 nhóm ion OH-, CO32- và HCO3- tạo nên. Một số muối như borat, silicat làm tăng độ kiềm. Vài acid hữu cơ khá bền với chất oxy hóa sinh học như humix; các muối của chúng gây tăng độ kiềm; tiêu thụ CO2 làm tăng độ pH. Độ kiềm cao gây ảnh hưởng xấu đến đời sống vi sinh vật. Nói chung cần giám sát độ kiềm để có biện pháp làm mềm nước hoặc tạo dung dịch đệm.

Độ cứng

Thường có hai loại là nước cứng và nước mềm.
Nước cứng không tạo bọt xà bông, dễ kết tủa do các ion hóa trị 2 như Ca++, Mg++ hoặc Fe++, Mn++, Zn++. Thường chủ yếu do Ca++và Mg++. Giám sát độ cứng qua hàm lượng CaCO3 quy đổi. Nước mềm có CaCO3 < 50 mg/l. Nhìn chung nước cứng không độc hại nhưng ảnh hưởng không tốt đến sinh hoạt và công nghiệp vì không có bọt, giặt lâu sạch, hấp thụ Ca, Mg làm cho vải mau mục, dòn hoặc tạo thành màng cứng trên thành ống, nồi hơi ... dễ gây nổ.

Độ đục

Độ đục là do các hạt rắn lơ lửng, các chất hữu cơ phân rã hoặc do động thực vật chết gây nên. Độ đục làm giảm khả năng truyền ánh sáng vào nước, giảm quang hợp và đặc biệt giảm tính thẩm mỹ. Các hạt rắn có thể mang theo vi sinh vật và mầm bệnh.
Giám sát độ đục thông qua hàm lượng SiO2 trong 1 lít nước. Đơn vị độ đục là 1 mg SiO2/lít nước.

Độ màu

Nước tự nhiên không có màu; độ màu là do các chất như mùn, vụn chất hữu cơ (xác thực vật phân hủy), các hạt lơ lửng vô cơ, các tanin, acid humic phân hủy, thường có nguồn gốc từ nước thải công nghiệp đặc biệt là giấy, bông, nhuộm ... hoặc do Fe, có màu nâu đặc trưng.
Người ta phân biệt màu thực và màu biểu kiến. Màu thực là do các dạng hữu cơ, thực vật dạng keo, khó xử lý ví dụ mùn humic có màu vàng; thủy sinh, rong tảo có màu xanh. Màu biểu kiến là do các hạt rắn vô cơ có màu, xử lý đơn giản hơn.
Nước thải công nghiệp thường có màu hỗn hợp vừa thực, vừa màu biểu kiến. Đôi khi nước có màu không gây độc hại đáng kể cho sinh vật nhưng làm giảm vẻ thẩm mỹ hoặc làm giảm phẩm chất trong chế biến thực phẩm, công nghiệp nhuộm ...

Hàm lượng chất rắn

Các chất rắn bao gồm các chất vô cơ hòa tan (các muối) hoặc không hòa tan (đất đá dạng huyền phù) và các chất hữu cơ như vi sinh vật (kể cả động vật nguyên sinh và tảo), các chất hữu cơ tổng hợp (phân bón, chất thải). Người ta thường giám sát hàm lượng chất rắn qua các thông số sau:
  • Tổng chất rắn (TS) là trọng lượng khô (mg/l) của phần còn lại sau khi bay hơi 1 lít nước, sấy khô ở 103oC.
  • Chất rắn lơ lửng (SS) là trọng lượng khô phần rắn còn lại trên giấy lọc sợi thủy tinh 1 lít nước, sấy khô ở 103-105oC.
  • Chất rắn hòa tan (DS) là hiệu số (TS – SS) = DS.

Hàm lượng oxy hòa tan (DO – Dissolved Oxygen)

Tất cả các sinh vật hiếu khí đều cần O2 cho hô hấp. Động vật trên cạn sử dụng O2 của không khí (khoảng 21% trong khí quyển), động vật dưới nước sử dụng O2 hòa tan (trung bình 4 mg/l); O2 hòa tan có nhiều hơn trên phần nước mặt, hoặc ở vùng có thực vật xanh. Hàm lượng O2 hòa tan phụ thuộc vào áp suất riêng phần O2 trong không khí; vào nhiệt độ nước và quang hợp, vào hàm lượng muối trong nước. O2 hòa tan giảm là dấu hiệu ô nhiễm nước. Khi hàm lượng O2 hòa tan gần bằng 0 thì nước ô nhiễm nặng. Nước sạch thì O2 bão hòa.
toC = 0oC; p = 1 atm thì DO # 14,6 mg/l
toC = 20oC; p = 1 atm thì DO # 9,2 mg/l
toC = 35oC; p = 1 atm thì DO # 7 mg/l

Nhu cầu oxy hóa sinh hóa (BOD – Biochemical Oxygen Demand)

Đó là lượng O2 cần thiết để vi sinh vật thực hiện quá trình oxy hóa sinh hóa các chất hữu cơ bị phân hủy. Đơn vị là mg O2/l. Chỉ số BOD cao thì ô nhiễm nặng.
  • Nước sạch thì BOD < 2 mg O2/l
  • Nước thải sinh hoạt thường có BOD # 80-240 mg O2/l
Thông thường phải có thời gian dài khoảng 20 ngày thì 80-90% lượng chất hữu cơ mới bị oxy hóa hết. Người ta quy ước để 5 ngày vì vậy gọi là BOD5.

Nhu cầu oxy hóa hóa học (COD – Chemical Oxygen Demand)

Đó là lượng oxy cần thiết cho quá trình oxy hóa hóa học các chất hữu cơ tạo thành CO2 và nước. Vì BOD không tính đến các chất hữu cơ bền vững vốn không bị oxy hóa sinh hóa, còn COD thì có tác dụng với mọi chất hữu cơ, nên COD được coi là đặc trưng hơn trong giám sát ô nhiễm nước. Nước thải ô nhiễm có tỉ lệ BOD/COD là 0,7 - 0,5.

Hàm lượng các chất

  • Sulfat SO42- ảnh hưởng đến sự tạo thành H2S gây mùi khó chịu, rất độc cho cá; gây cặn cứng ở thành nồi hơi, nồi nấu nước, làm mòn kim loại, gây bệnh tiêu chảy.
  • Nitơ và hợp chất nitơ: Chủ yếu bắt nguồn từ quá trình phân hủy chất hữu cơ do vi sinh vật. Nitrit – NO2 là giai đoạn trung gian trong quá trình đạm hóa. Nitrat – NO3 là giai đoạn oxy hóa cao nhất cũng là giai đoạn sau cùng của oxy hóa sinh học.
  • Phosphat PO43-: Đó là nguồn dinh dưỡng giúp sinh vật và hệ sinh thái nước phát triển. Nhưng nếu nhiều quá sẽ sinh ra thiếu O2 tạo nên hiện tượng thối rữa.
  • Các kim loại và kim loại nặng: Các kim loại thường được lưu ý giám sát bởi tính độc hại và tác động gây ô nhiễm của chúng như: đồng, sắt, mangan, kẽm, chì, crom, nhôm, thủy ngân.

Thành phần nước thải của một số nhà máy

Đặc điểm nước thải của một số nhà máy lớn ở Hà Nội
STTTÊN NHÀ MÁYLƯỢNG XẢ m3/ngàyBOD5 mg/lCOD mg/lCÁC CHẤT BẨN ĐẶC TRƯNGĐIỂM XẢ
1.Da Thụy Khê1.300350675Crom, tananh, sulfurMương Thụy Khê
2.Bia Hà Nội3.000150290Cặn biaMương Đại Yên
3.Rượu Hà Nội6.000350675Bã rượuMương Trần Khắc Chân
4.Dệt 8/310.00080250Các chất tẩy, nhuộmSông Kim Ngưu
5.Cao su Sao vàng5.000140380Các chất lưu hóaSông Tô Lịch
6.Xà phòng Hà Nội5.00035295NaOHSông Tô Lịch
7.Nhà máy công cụ số 13.6002570Ni, Cr, CuSông Tô Lịch
8.Pin Văn Điển2.0002865Mn, Fe, PbSông Kim Ngưu
9.Phân lân Văn Điển5.0004095PO43-Sông Kim Ngưu
10.Nhà máy sơn tổng hợp1.2003047Se, dầu, Fe2O3Sông Tô Lịch
Thành phần hóa học nước thải của Vedan, Vissan, đường Hiệp Hòa
STTChỉ tiêuĐơn vịVedanVissanĐường Hiệp Hòa
1.pH4,607,33,2
2.SSmg/l-530180
3.Tổng Nmg/l1.170,0021220
4.N-NH4mg/l61,007778
5.Tổng Pmg/l571,003020
6.CODmg/l370.000,003.400146.000
7.BOD5mg/l70.000,001.80026.000
8.Mg2+mg/l2.600,005,6800
9.Ca2+mg/l6.400,00355.600
10.HCO3-mg/l6,005055
11.Pb2+mg/l0,01<0,01-
12.Zn2+mg/l3,31<0,01-
13.Cd2+mg/l0,01<0,01<0,01
14.Hg+μ g/l<0,20--
15.Cl-mg/l--19.150
16.Na+mg/l--200

Vedan

Nguồn nước thải của Công ty Vedan từ các nguồn như: Nước chảy tràn; Nước thải sinh hoạt của cán bộ công nhân viên và nước thải sản xuất. Nước thải sản xuất bao gồm:
  • Nước thải từ phân xưởng sản xuất Lysin và phân Vedagro trong dây chuyền lên men (phương pháp sinh học hiếu khí) chứa hàm lượng cao các chất hữu cơ (BOD, COD), chất dinh dưỡng (N, P), SS và các acid.
  • Nước thải từ phân xưởng sản xuất tinh bột và nước đường (phương pháp sinh học hiếu khí kết hợp kỵ khí). Nước thải chủ yếu có chứa hàm lượng cao chất hữu cơ (BOD, COD), xơ vỏ của sắn, đặc biệt có CN-.
  • Nước thải từ phân xưởng sản xuất bột ngọt và phân Vedagro có chứa hàm lượng cao NH3, COD, BOD5.
Lượng nước thải của nhà máy vào khoảng 1.000–1.200 m3/ngày. Nguồn nước thải của khu lên men là khu có nguồn nước thải rất lớn 1.250m3/ngày.

Công ty súc sản Vissan

Nước thải của công ty chủ yếu là huyết, phân (trâu, bò, heo) và một số phế phẩm như da, lông, các phần hư hỏng loại bỏ của khâu chế biến.v.v… Các nguồn nước thải:
  • Từ khu giết mổ gia súc.
  • Từ khu chế biến sản phẩm từ thịt gia súc - gia cầm.
  • Từ khu chế biến sản phẩm từ nguyên liệu thủy hải sản.
  • Từ khu chuồng trại.
  • Nước thải sinh hoạt khu hành chính.

Nhà máy đường Hiệp Hòa (Long An)

Nước thải có màu nâu sậm, mùi lên men đường hôi, chua, mức độ ô nhiễm rất nghiêm trọng nếu thải trực tiếp ra sông hồ. Thành phần khoáng vô cơ và hữu cơ đều cao, độ pH acid. Nước thải chứa thành phần mật và rỉ đường lớn có thể nghiên cứu ứng dụng làm phân bón ruộng, và pha loãng nuôi vi tảo.

Việt Nam

Nhờ tổng lượng nước ngọt bề mặt phong phú (881,97 tỉ m3, bình quân 11.760 m3/người) và tốc độ đô thị hóa chưa cao nên mức độ ô nhiễm nguồn nước trung bình hàng năm vẫn còn thấp, dưới mức cho phép. Nếu xét cụ thể ở từng nơi, tình trạng lại có thể ở mức báo động.
Nước thải sinh hoạt, nước thải công nghiệp, rác sinh hoạt, rác công nghiệp thải trực tiếp vào các dòng chảy làm nguồn nước ở các thành phố lớn, trung tâm đều bị nhiễm bẩn. Theo báo cáo hiện trạng môi trường Việt Nam năm 1994:
  • Các chỉ số BOD, SS, pH ở các nguồn tiếp nhận nước thải đều  5-10 lần tiêu chuẩn, những nguồn ô nhiễm nặng có chỉ số  20 lần.
  • Các nguồn tiếp nhận nước thải còn chứa kim loại nặng như arsen, kẽm, crôm, thủy ngân, chì … là những nguyên tố rất độc hại chỉ với hàm lượng thấp (ví dụ trong kiểm nghiệm các chất để bào chế thuốc, Arsen ≤ 2 ppm, cyanur không có, chì ≤ 10 ppm).
Vùng nông thôn, một số kênh rạch bị ô nhiễm do không được nạo vét; đông dân cư; ý thức vệ sinh môi trường của người dân chưa cao hoặc nước thải thải trực tiếp ra kênh rạch (Thị trấn Mỹ Phước, Bình Phước-Trục lộ Cầu đò (KP1-TT Mỹ phước) do quy trình giết mổ heo thủ công).
Ô nhiễm môi trường nước nông thôn và môi trường nước biển nhìn chung còn ở mức thấp, nhưng hiện nay đã bắt đầu tăng lên, nhất là các nơi gần khu công nghiệp, bến cảng, cửa sông, bãi tắm.

Theo voer.edu.vn